
Kiến tạo nền nông nghiệp sinh thái bền vững
Giai đoạn vừa qua, sản xuất nông nghiệp của tỉnh đạt được kết quả khả quan về sản lượng, chất lượng nông sản, đáp ứng các mục tiêu an ninh lương thực và thương mại hàng hoá, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông nghiệp và đóng góp vào cơ cấu kinh tế chung của toàn tỉnh. Trên nền tảng này, tỉnh đang tiến tới mục tiêu phát triển nền nông nghiệp xanh, sạch.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nông nghiệp bền vững, năm 2022 tỉnh phê duyệt Đề án “Phát triển nông nghiệp hữu cơ tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Đây là văn bản pháp lý quan trọng làm nền tảng cho việc triển khai các hoạt động phát triển nông nghiệp xanh, sạch. Hiện thực hoá Đề án này, tỉnh xây dựng các chính sách khuyến khích nông nghiệp hữu cơ, như hỗ trợ 100% kinh phí xác định các vùng, khu vực đủ điều kiện sản xuất hữu cơ, hỗ trợ toàn bộ kinh phí cấp giấy chứng nhận sản phẩm… Từ năm 2022 đến nay, ngân sách tỉnh đã chi trên 10 tỷ đồng cho các dự án nông nghiệp hữu cơ. Tỉnh hiện có 90ha canh tác xen lúa - rươi - cáy theo hướng hữu cơ; 45ha lúa thuần được chứng nhận hữu cơ với sản lượng khoảng 150 tấn; 10ha trà hoa vàng; 15ha chè; 3ha cam; 329ha quế hữu cơ cho sản lượng ổn định, trong đó 220 tấn vỏ quế được xuất khẩu vào thị trường châu Âu với giá bán cao hơn 20% so với quế thông thường, minh chứng cho giá trị và chất lượng của nông sản hữu cơ.

Tiếp tục thực hiện các chỉ tiêu của Đề án, tỉnh đang phấn đấu đạt diện tích 55ha trồng trọt hữu cơ ở những loại sản phẩm chủ lực, như rau, củ, quả, chè, dược liệu, lúa gạo. Trong lĩnh vực chăn nuôi, tỉnh tập trung tăng giá trị sản phẩm chăn nuôi hữu cơ từ 10-15% tại các đàn gia súc, gia cầm khu vực miền Đông của tỉnh.
Cùng với thực hiện Đề án,nhiều hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) của tỉnh áp dụng quy trình canh tác không sử dụng phân bón hóa học, chất diệt cỏ, thuốc trừ sâu, chất biến đổi gen, chất kích thích sinh trưởng và cần có thời gian để cải tạo chất đất, nguồn nước… Theo ông Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc Sở NN&MT, thực chất đây là những tiêu chí của NNST, xanh, sạch. Chiếu theo tiêu chí này, Quảng Ninh có 12.000ha rừng có cấp chứng chỉ, có nhiều những cơ sở NTTS bằng hệ thống lồng bè bằng chất liệu HDPE, sản lượng thuỷ sản khai thác có chọn lọc, không dùng ngư cụ cấm, có những đàn gia súc gia cầm được chăn thả và sử dụng đệm lót sinh học…
Trong lĩnh vực NTTS, Quảng Ninh thể hiện sự tiên phong và là một trong những địa phương đầu tiên trong nước ban hành Quy chuẩn kỹ thuật địa phương về vật liệu sử dụng làm phao nổi trong NTTS lợ, mặn. Trong đó, quy định rõ các cơ sở NTTS đang sử dụng vật liệu làm phao nổi phải chuyển đổi toàn bộ sang vật liệu HDPE hoặc tương đương. Đây là loại vật liệu đã được chứng minh bền vững, thân thiện môi trường, giảm những tác động không đáng có đến môi trường biển. Quá trình thực hiện quy chuẩn này của Quảng Ninh thời gian qua không hề dễ dàng, có thời điểm toàn tỉnh sử dụng hơn 6,85 triệu quả phao xốp để làm hệ nổi trong NTTS. Đến nay với những nỗ lực rất đáng ghi nhận, trên 99,5% diện tích NTTS toàn tỉnh đã chuyển đổi sang dùng chất liệu HDPE, đồng nghĩa với một số lượng phao xốp khổng lồ trên vùng biển được thu gom, xử lý, thay thế đúng quy trình, trả lại môi trường biển trong sạch.
Ông Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc Sở NN&MT, khẳng định: Quảng Ninh có tiềm năng phát triển NNST, xanh, sạch. Tỉnh có nhiều vùng trồng trọt, chăn nuôi, NTTS tập trung, trong đó nhiều diện tích đã canh tác theo hướng hoặc đã được chứng nhận quy trình canh tác VietGAP, thuận lợi để chuyển sang sản xuất hữu cơ hoặc dạng sản xuất không dùng vật tư đầu vào có gốc hoá học hoặc các quy trình canh tác ảnh hưởng hệ sinh thái và môi trường. Cụ thể toàn tỉnh có 12.000ha cây trồng tập trung, 56 khu vực trồng trọt được cấp mã vùng trồng, gần 9.500ha rừng được cấp chứng chỉ rừng, 1 vùng chăn nuôi an toàn với dịch bệnh, 1 cơ sở NTTS được cấp phép đến năm 2050.

Mặc dù đã đạt được những kết quả ban đầu, nhưng tiến trình phát triển NNST, xanh, sạch của tỉnh vẫn chịu nhiều tác động khó khăn, khiến quá trình chuyển động còn chậm. Điển hình như Công ty CP Terranique tại phường Hoành Bồ, dù được chứng nhận sản xuất trồng trọt hữu cơ theo tiêu chuẩn EU và USDA (Mỹ) với diện tích 2,5ha từ năm 2014, nhưng do chi phí sản xuất cao lên tới 8 tỷ đồng và quá trình sản xuất, tiêu thụ không thuận lợi, Công ty phải tạm dừng sản xuất. Ông Nguyễn Văn Trình, một cổ đông của Công ty Terranique, nhận định, NNST, xanh, sạch, mà sản xuất hữu cơ là một biểu hiện cụ thể, là một quá trình dài và đòi hỏi chi phí cao. Hiện cả người sản xuất và người tiêu dùng đều chưa đủ kiên trì để thực hiện: Người sản xuất muốn thu hoạch nhanh để xoay vòng vốn; người tiêu dùng mong muốn mua sản phẩm với mức giá không quá chênh lệch so với nông sản canh tác thông thường. Đây chính là những rào cản lớn đối với nông nghiệp hữu cơ.
Để đẩy nhanh phát triển NNST, xanh, sạch, tỉnh và ngành Nông nghiệp cần hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển NNST, xanh, sạch; phát triển và nâng cao hiệu quả các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường liên kết “4 nhà”; đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng tiến bộ KHCN, công nghệ cao; đồng thời xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại tiêu thụ sản phẩm... Những chính sách này sẽ bù đắp cho đặc thù sản xuất NNST, xanh, sạch không có mức tăng trưởng nhanh như sản xuất nông nghiệp thâm canh, mất nhiều công, chi phí, giá thành cũng cao hơn so với loại thường, trong khi thị trường luôn yêu cầu sản phẩm rau màu tốt mã, giá rẻ.



Ý kiến ()