
Nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững
Thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030, Quảng Ninh đã có bước đi chiến lược, tập trung ưu tiên phát triển giáo dục và y tế. Đây được coi là hai lĩnh vực then chốt, vừa trực tiếp nâng cao chất lượng cuộc sống, vừa tạo nền tảng lâu dài cho sự phát triển bền vững.
Ưu tiên đầu tư giáo dục, y tế miền núi, hải đảo

Trong chặng đường 5 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, đặc khu Cô Tô đã ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển đồng bộ hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó lĩnh vực giáo dục và y tế được xác định là then chốt, trực tiếp nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Với đặc thù là đảo tiền tiêu, xa đất liền, việc đầu tư nâng cấp trường học, cơ sở khám chữa bệnh không chỉ là nhiệm vụ trước mắt, mà còn là chiến lược lâu dài, góp phần xây dựng nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững.
Ở lĩnh vực giáo dục, Cô Tô đã dành sự quan tâm đặc biệt cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Chỉ trong vòng 5 năm, toàn bộ 10/10 trường học trên địa bàn được công nhận đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1. Đáng chú ý, đến năm 2024 đã có 2 trường đạt chuẩn quốc gia cấp độ 2. Việc đầu tư trường lớp, trang thiết bị mới không chỉ cải thiện điều kiện học tập cho học sinh, mà còn tạo động lực đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới. Đây là bước tiến vượt bậc so với giai đoạn trước, khẳng định quyết tâm của Cô Tô trong việc xây dựng hệ thống giáo dục hiện đại, chất lượng cao.

Song song với đó, Cô Tô cũng chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cả về chuyên môn lẫn kỹ năng quản lý. Hằng năm, nhiều lớp bồi dưỡng được tổ chức, trang bị kiến thức chính trị, quản lý nhà nước cũng như các kỹ năng giảng dạy hiện đại. Cùng với việc nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, công tác đào tạo nghề, định hướng nghề nghiệp cho lao động trẻ cũng được đặc biệt quan tâm. Từ năm 2021 đến 2025, Cô Tô đã mở 4 lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn với 120 học viên tham gia, mở ra hướng đi mới trong chuyển dịch cơ cấu lao động, góp phần nâng cao thu nhập, ổn định đời sống cho người dân.
Trong lĩnh vực y tế, sự đầu tư đồng bộ đã mang lại diện mạo mới cho hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân trên đảo. Trung tâm Y tế Cô Tô được nâng cấp đạt tiêu chuẩn với hơn 60 giường bệnh, trang thiết bị hiện đại, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cơ bản và cấp cứu cho người dân, ngư dân và du khách. Đồng thời, cả 3/3 trạm y tế đều đạt chuẩn quốc gia, đảm bảo chức năng chăm sóc sức khỏe ban đầu ngay tại cơ sở. Đây là điểm tựa quan trọng giúp người dân an tâm sinh sống, lao động trên đảo, giảm thiểu khó khăn do cách trở địa lý. Đặc biệt, 100% người dân trên địa bàn được cấp thẻ BHYT theo chính sách của Trung ương, bảo đảm quyền lợi chăm sóc sức khỏe toàn dân.
Một điểm sáng nổi bật là việc ứng dụng công nghệ số trong y tế, khi tỷ lệ quản lý sức khỏe bằng hồ sơ điện tử đạt 100%. Điều này không chỉ giúp ngành y tế Cô Tô quản lý, theo dõi tốt tình trạng sức khỏe cộng đồng mà còn nâng cao hiệu quả phòng, chống dịch bệnh. Hệ thống y tế trên đảo đã thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, từ chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng, cho tới quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm. Nhờ đó, tình hình dịch tễ cơ bản được kiểm soát, sức khỏe nhân dân được bảo vệ vững chắc.
Những kết quả đạt được trong giáo dục và y tế đã góp phần nâng cao rõ rệt chất lượng đời sống nhân dân Cô Tô. Trẻ em được học tập trong môi trường tốt hơn, tiếp cận tri thức mới mẻ, toàn diện. Người dân được thụ hưởng dịch vụ y tế chất lượng, kịp thời, giảm đáng kể tình trạng chuyển tuyến vào đất liền. Đây cũng là nền tảng quan trọng để Cô Tô phát triển kinh tế biển, du lịch dịch vụ, bởi chất lượng giáo dục và y tế là yếu tố quyết định đến nguồn nhân lực và sự ổn định xã hội.
Việc đầu tư đồng bộ cho hạ tầng giáo dục và y tế đã tạo ra bước chuyển mạnh mẽ, đem lại “cú hích” quan trọng cho sự phát triển toàn diện của Cô Tô. Thành quả ấy không chỉ là sự thay đổi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, mà quan trọng hơn, là sự nâng cao chất lượng dạy và học, chất lượng khám chữa bệnh - những giá trị thiết thực gắn liền với đời sống mỗi người dân nơi đảo xa.

Là những địa phương miền núi, các xã Bình Liêu, Lục Hồn và Hoành Mô đang có những bước tiến mạnh mẽ trong công cuộc phát triển bền vững. Với sự quan tâm, đầu tư đúng hướng của tỉnh đã tạo ra những chuyển biến tích cực, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và y tế, từ đó nâng cao chất lượng đời sống cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây. Từ năm 2021 đến nay, công tác đầu tư, cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất giáo dục được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Được sự quan tâm của tỉnh, các địa phương triển khai nhiều dự án quy mô lớn, góp phần tạo nên diện mạo mới cho ngành giáo dục địa phương, như: Các dự án cải tạo, nâng cấp Trường THCS&THPT Hoành Mô (52 tỷ đồng); Trường THPT Bình Liêu (95 tỷ đồng) và Trường Tiểu học Tình Húc (95 tỷ đồng) đã được đầu tư, tạo ra môi trường học tập khang trang, hiện đại.

Không chỉ dựa vào nguồn vốn của tỉnh, huyện Bình Liêu (cũ) cũng chủ động bố trí kinh phí để cải tạo, sửa chữa 12 trường và điểm trường khác, với tổng mức đầu tư hơn 100 tỷ đồng. Những nỗ lực này không chỉ giúp 100% các cơ sở giáo dục trên địa bàn đáp ứng các tiêu chí trường chuẩn quốc gia mà còn đạt được tỷ lệ cao hơn mức trung bình của toàn tỉnh. Đến nay, 89,39% phòng học đã được kiên cố hóa và tất cả 24 trường đều đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 11 trường đạt chuẩn mức độ 2, chiếm 45,8%.
Bên cạnh việc đầu tư cơ sở hạ tầng, chất lượng đội ngũ giáo viên cũng được chú trọng. Các địa phương đã thực hiện việc rà soát, sắp xếp và luân chuyển cán bộ quản lý, giáo viên một cách hợp lý. Công tác đào tạo lại cũng được triển khai thường xuyên, đảm bảo đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Nhờ đó, chất lượng giáo dục toàn diện đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ huy động học sinh DTTS ra lớp luôn đạt kết quả cao, và chất lượng học sinh giỏi cũng tăng lên đáng kể qua các năm.
Cùng với đó, công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân cũng được đặc biệt quan tâm với việc triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, trong đó có các hạng mục liên quan đến y tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đặc biệt là những đối tượng ở vùng sâu, vùng xa. Việc đầu tư vào cơ sở vật chất y tế, trang thiết bị và đội ngũ y bác sĩ là một phần quan trọng để người dân được tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tốt hơn, từ đó cải thiện sức khỏe, giảm bớt gánh nặng bệnh tật.
Những quyết sách mang tính đột phá cho giáo dục, y tế vùng khó

Điều kiện địa lý đặc thù, giao thông cách trở, cơ sở hạ tầng còn hạn chế từng là rào cản lớn đối với giáo dục và y tế. Vì vậy, Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030 là quyết sách mang tính đột phá, đặt con người làm trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Trong 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết quan trọng này, tỉnh đã huy động nguồn lực trên 120.000 tỷ đồng để đầu tư cho các xã, thôn vùng DTTS, miền núi, hải đảo, biên giới. Riêng lĩnh vực giáo dục và y tế luôn được coi là trọng tâm, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngân sách hằng năm. Từ một nền tảng còn nhiều thiếu thốn, mạng lưới trường lớp, bệnh viện, trạm y tế đã được nâng cấp đồng bộ, từng bước đáp ứng nhu cầu dạy học và chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngay tại địa phương.
Theo thống kê, trong giai đoạn 2021-2025, Quảng Ninh bố trí hơn 3.291 tỷ đồng cho giáo dục, đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, gấp 2,3 lần so với giai đoạn trước. Trong đó, hơn 2.626 tỷ đồng dành riêng cho xây dựng, nâng cấp trường lớp, nhất là tại các xã miền núi, vùng đồng bào DTTS. Với nguồn lực to lớn này, đến nay, toàn bộ trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú đã được kiên cố hóa, đảm bảo an toàn và tiện nghi hơn. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn tỉnh đạt 90,8% (560/617 trường); riêng các địa phương vùng khó như Ba Chẽ, Kỳ Thượng, Lương Minh và đặc khu Cô Tô đạt 100%. Tỉnh đã ưu tiên phân bổ nguồn tăng thu ngân sách cho các dự án trường học như: THCS Quảng Minh, THCS Đầm Hà 1, Mầm non Quan Lạn, THCS Ninh Dương… tạo diện mạo mới cho giáo dục ở vùng xa, vùng khó.

Cùng với cơ sở vật chất, Quảng Ninh đặc biệt quan tâm đến thực hiện các chính sách đặc thù cho học sinh vùng DTTS: hỗ trợ học phí, chi phí ăn ở cho học sinh bán trú, tặng sách vở, đồ dùng học tập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; xây dựng nhà công vụ cho giáo viên ở xa. Các đề án mang tính nền tảng như “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS” đã giúp hàng chục nghìn học sinh nâng cao kỹ năng ngôn ngữ, thuận lợi trong tiếp thu kiến thức.
Bên cạnh đó, đội ngũ nhà giáo được củng cố cả về số lượng và chất lượng. Hiện toàn tỉnh có 2.685 giáo viên, nhân viên là người DTTS, chiếm 11% tổng số cán bộ ngành Giáo dục. Các lớp bồi dưỡng chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng sư phạm được tổ chức thường xuyên, giúp giáo viên miền núi, hải đảo bắt kịp yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông.
Đặc biệt, giáo dục nghề nghiệp cũng được quan tâm, tỉnh mở nhiều lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng cao, kết nối với doanh nghiệp ngành Than, du lịch, dịch vụ. Nhờ đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh, góp phần nâng thu nhập bình quân vùng nông thôn miền núi lên 83,79 triệu đồng/người/năm vào cuối năm 2024.

Nếu giáo dục là “đầu tư cho tương lai”, thì y tế lại là “chỗ dựa hiện tại” của nhân dân. Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết 06, Quảng Ninh đã đầu tư 3 công trình y tế quy mô lớn, đồng thời cải tạo, nâng cấp hàng chục bệnh viện, trung tâm y tế. Đặc biệt, 177 trạm y tế được quan tâm đầu tư, trong đó nhiều trạm được bổ sung thiết bị hiện đại như máy siêu âm, máy điện tim, bàn khám sản khoa, ghế khám răng… Nhờ đó, nhiều kỹ thuật y khoa trước kia chỉ thực hiện được ở tuyến tỉnh, nay đã triển khai ngay tại cơ sở. Công tác khám chữa bệnh từ xa và quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử được mở rộng, với 100% dân số toàn tỉnh có hồ sơ sức khỏe. Đây là bước tiến quan trọng trong chuyển đổi số ngành Y tế Quảng Ninh. Tỉnh đã cấp thẻ BHYT cho hơn 70.000 người DTTS, nhờ đó, người dân được bảo đảm quyền lợi chăm sóc sức khỏe, giảm gánh nặng chi phí. Các chương trình y tế quốc gia, chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, phòng chống suy dinh dưỡng… được triển khai đồng bộ, góp phần hạ tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi xuống còn 10,5%.
Mô hình quân - dân y kết hợp cũng phát huy hiệu quả cao. Nhiều đợt khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí đã được tổ chức cho bà con vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Điều này không chỉ bảo đảm sức khỏe mà còn củng cố niềm tin của nhân dân vào sự quan tâm của Đảng, Nhà nước.
Một trong những điểm nổi bật là Quảng Ninh đã chủ động ban hành nhiều cơ chế, chính sách đặc thù nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi, biên giới, hải đảo với khu vực trung tâm. Ngoài Nghị quyết 06, HĐND tỉnh đã thông qua Nghị quyết 16/2021/NQ-HĐND hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, cấp thẻ BHYT cho người DTTS; Nghị quyết 99/NQ-HĐND với 17 dự án trường học vùng khó; cùng nhiều nghị quyết về phân bổ vốn tăng thu ngân sách cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Đặc biệt, cách làm sáng tạo của Quảng Ninh là lấy ngân sách nhà nước làm “vốn mồi” để huy động xã hội hóa. Bình quân, 1 đồng vốn ngân sách đã huy động thêm 5 đồng vốn xã hội, giúp tối đa hóa hiệu quả đầu tư. Đây chính là chìa khóa để tỉnh vừa đảm bảo nguồn lực phát triển hạ tầng, vừa khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân cùng tham gia.
Với việc đầu tư nâng cấp hạ tầng giáo dục, y tế, đến nay, Quảng Ninh có 637 cơ sở giáo dục, trong đó hầu hết đã kiên cố, chuẩn hóa; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia dự kiến đạt trên 91% trong năm 2025. Hệ thống y tế cơ sở được củng cố toàn diện, 100% các xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, góp phần giảm tải cho bệnh viện tuyến trên.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số trạm y tế, trường học ở vùng sâu, vùng xa xuống cấp; nguồn nhân lực giáo viên, bác sĩ còn thiếu; chất lượng dịch vụ chưa đồng đều. Đây là những vấn đề cần ưu tiên giải quyết trong giai đoạn tới. Theo đó, trong giai đoạn 2026-2030, Quảng Ninh tiếp tục đặt mục tiêu: Dành trên 20% ngân sách hằng năm cho giáo dục - đào tạo, duy trì tỷ lệ chi thường xuyên 30-35%; hoàn thiện mạng lưới trường chuẩn quốc gia, ưu tiên các xã miền núi, hải đảo, biên giới. Hiện đại hóa cơ sở y tế tuyến xã; đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại cho trạm y tế; mở rộng ứng dụng y tế số. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, gắn giáo dục nghề nghiệp với nhu cầu lao động ở địa phương. Tiếp tục thực hiện chính sách đặc thù, nhất là hỗ trợ học sinh, giáo viên, nhân viên y tế công tác tại vùng khó.
Có thể khẳng định, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết 06, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được nhiều thành quả quan trọng trong việc đầu tư cơ sở vật chất giáo dục và y tế, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi, biên giới, hải đảo với trung tâm. Những trường học khang trang, những trạm y tế hiện đại, những chính sách đặc thù kịp thời đã mang đến cho đồng bào niềm tin, cơ hội và tương lai tốt đẹp hơn.
Ý kiến ()