
Kiểm soát ô nhiễm tại KCN, CCN
Các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) được coi là động lực phát triển công nghiệp, song cũng tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường lớn nếu không kiểm soát chặt chẽ. Bởi vậy, Quảng Ninh luôn coi kiểm soát ô nhiễm tại KCN, CCN là điều kiện tiên quyết để bảo đảm sự phát triển bền vững.
Ghi nhận tại KCN Đông Mai và KCN Hải Yên, bình quân tổng lượng nước thải công nghiệp phát sinh tại 2 KCN này lần lượt là 165.000m3 và 378.000m3/năm. Hiện cả 2 KCN đều có hệ thống xử lý và quan trắc nước thải vận hành liên tục 24/24 giờ. Toàn bộ lượng nước thải đều được thu gom và xử lý qua hệ thống tập trung trước khi xả ra môi trường. Kết quả quan trắc định kỳ và quan trắc tự động tại cả 2 KCN trong năm 2024 đều cho thấy không có mẫu nước thải nào vượt quy chuẩn cho phép theo QCDP 3:2020/QN. Các trạm xả thải được lắp đặt hệ thống giám sát tự động, kết nối trực tiếp với cơ quan quản lý môi trường, giúp bảo đảm tính minh bạch và kịp thời phát hiện, xử lý sự cố.
Ông Hoàng Xuân Hùng, Phó Giám đốc Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng Viglacera, chủ đầu tư 2 KCN, cho biết: “Để kiểm soát tối đa ô nhiễm môi trường, công tác phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường cũng được chú trọng. Đơn vị phối hợp với chính quyền địa phương, các doanh nghiệp thứ cấp trong khu xây dựng phương án cụ thể, bố trí lực lượng tại chỗ, thường xuyên tổ chức huấn luyện, diễn tập. Nhờ vậy, chất lượng môi trường tại KCN Đông Mai và Hải Yên được duy trì ổn định, góp phần xây dựng không gian sản xuất xanh, sạch”.
Tính đến hết năm 2024, toàn tỉnh đã có 8 KCN đi vào hoạt động. Toàn bộ đều được đầu tư hạ tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường theo quy định, đạt 100%. Tổng lượng nước thải phát sinh tại 8 KCN trong năm 2024 khoảng 30.073m³/ngày đêm, được thu gom, xử lý đạt chuẩn Cột B - QCVN 40:2011/BTNMT và quy chuẩn kỹ thuật địa phương trước khi xả thải. Toàn bộ KCN đều lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải tự động, truyền dữ liệu về Sở NN&MT, Bộ NN&MT để theo dõi, giám sát.
Hạ tầng các KCN đã hoàn thiện trạm xử lý nước thải tập trung với tổng công suất 71.400m³/ngày đêm. Nước thải sau xử lý đều đạt quy chuẩn trước khi thải ra môi trường. Song song, 173 dự án thứ cấp đang hoạt động trong KCN đều thực hiện nghiêm túc các quy định môi trường, như lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường; ký hợp đồng xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; đảm bảo đấu nối nước thải đúng quy chuẩn. 100% KCN ban hành quy chế bảo vệ môi trường, bố trí cán bộ phụ trách chuyên trách, thực hiện chế độ báo cáo định kỳ.

Không chỉ các KCN, hệ thống CCN trên địa bàn tỉnh cũng từng bước hoàn thiện công tác bảo vệ môi trường. Hiện toàn tỉnh có 11 CCN, trong đó 4 CCN đã đi vào hoạt động. Tất cả đều có hạ tầng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu theo Luật Bảo vệ môi trường, nâng số lượng CCN đạt chuẩn tăng thêm 1 cụm so với thời điểm trước khi luật có hiệu lực. Năm 2024, tổng lượng nước thải phát sinh tại 4 CCN khoảng 346,3m³/ngày đêm, đều được xử lý đạt quy chuẩn. Các đơn vị thứ cấp trong CCN cũng tuân thủ quy định pháp luật về môi trường, xử lý chất thải theo đúng hợp đồng với chủ đầu tư hạ tầng.
Trên thực tế, các dự án xử lý nước thải sinh hoạt và công nghiệp khó thu hút nhà đầu tư do suất đầu tư lớn, chi phí xử lý thấp, thời gian thi công kéo dài. Việc cải tạo hệ thống thoát nước tại các khu dân cư hiện hữu phức tạp, tốn kém, nên chưa hấp dẫn doanh nghiệp. Ở nhiều khu vực, hệ thống cống thoát nước được xây dựng lâu năm đã xuống cấp, dễ nứt vỡ, thấm rò rỉ, khiến việc thu gom nước thải không đạt hiệu quả…
Để khắc phục thực trạng này, hiện tỉnh đã kiến nghị Bộ Xây dựng sớm ban hành định mức đơn giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải nhằm tạo sức hút cho các dự án đầu tư. Đồng thời, đề xuất xây dựng Luật Cấp - thoát nước để tăng cường hiệu quả quản lý. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ sẽ giúp thu hút nguồn vốn tư nhân tham gia lĩnh vực thu gom, xử lý nước thải tập trung; tạo hành lang pháp lý đồng bộ, lâu dài cho công tác bảo vệ môi trường tại các KCN, CCN.
Ý kiến ()