
Chuyện cấp nước ở Cô Tô
Chúng tôi có chuyến công tác tới Cô Tô vào một sáng giữa tháng 5, khi một cơn “mưa vàng” hiếm hoi đổ xuống sau chuỗi ngày nắng gắt. Mưa làm dịu không khí oi ả. Với người làm du lịch và khách du lịch tới đảo, mưa đến bất ngờ có thể là tin... không vui nhưng với những người làm công tác quản lý và điều tiết nước - đó lại là niềm vui khó tả.
Những người "gác nước"
“May quá, mưa này quý như vàng đấy anh ạ!” - anh Phạm Công Quý, Phó Giám đốc Ban Quản lý Dịch vụ công ích huyện Cô Tô nở nụ cười nhẹ nhõm, vừa nói vừa giục chúng tôi theo chân anh để “mục sở thị” công việc của tổ cấp nước, bộ phận phụ trách đảm bảo dòng chảy cho gần 2.000 hộ dân trên toàn huyện đảo.

Tôi được dẫn lên trạm bơm và trạm lọc nước Trường Xuân (xã Đồng Tiến) - nơi được ví như “bộ não” điều phối toàn bộ mạng lưới cấp nước sinh hoạt. Đồng hành cùng chúng tôi là anh Nguyễn Bá Quyền, nhân viên Tổ nước của Ban, người đã cả chục năm gắn bó với từng mét ống, từng khớp van trên khắp đảo.
Con đường lên trạm không dễ đi, dốc hơn 30 độ, trơn trượt sau mưa, xe máy phải chạy số thấp và giữ ga thật đều. “Mỗi lần mưa to là đường như trượt bùn. Nhưng mưa thế này quý lắm, mực nước hồ vừa kịp lên lại sau chuỗi ngày hạn kéo dài” - anh Quyền nói, vừa chỉ về khu trạm nằm vắt vẻo trên đồi cao, cách mặt nước biển khoảng 200-300m.
Tại đây, tôi gặp anh Nguyễn Văn Hạnh, một nhân viên khác trong Tổ nước đang kiểm tra mực nước tại hồ. Anh Hạnh kể: “Chúng tôi đặt trạm ở độ cao tự nhiên như thế để tận dụng áp lực trọng lực trong cấp nước, tiết kiệm điện. Nhưng đổi lại, việc kiểm tra, bảo vệ và vận hành rất vất vả. Mưa bão cũng như nắng to, đều phải lên kiểm tra van, máy bơm, không được lơ là phút nào”.

Anh Hạnh vừa nói vừa chỉ vào khu vực có biển cảnh báo “khu vực an ninh nguồn nước”. Toàn bộ trạm được bảo vệ nghiêm ngặt, không chỉ vì giá trị kinh tế mà còn bởi đây là mạch sống của đảo. “Có lần bão về, gió quật đổ cả cây chắn đường, nhưng anh em vẫn phải đội mưa lên kiểm tra van, không để gián đoạn cấp nước cho dân” - anh Hạnh nói thêm.
Giữa tiếng rì rầm của máy bơm, tiếng gió hú trên lưng đồi và những vệt nước mưa còn đọng trên lá, tôi thấy rõ hơn bao giờ hết giá trị của từng giọt nước trên đảo. Nó không chỉ đến từ thiên nhiên, mà còn từ mồ hôi, sự tận tâm và ý chí bền bỉ của những người “gác nước” thầm lặng.
Từ trạm Trường Xuân - nguồn cấp chính cho hơn 400 hộ ở xã Đồng Tiến - nước sẽ được dẫn về trạm lọc, khử trùng, rồi phân phối tới từng cụm dân cư. Từ thôn Trường Xuân, Hải Tiến, Nam Hà cho đến vùng dân cư Thanh Lân hay thị trấn trung tâm, mỗi điểm đến đều in dấu những bước chân leo dốc, vượt bão để giữ cho mạch nước ngọt không bao giờ đứt quãng.

Giữ vị ngọt giữa trùng khơi
Trong câu chuyện cùng chúng tôi, anh Nguyễn Văn Hiếu, Trưởng Ban Quản lý Dịch vụ công ích huyện Cô Tô chia sẻ những khó khăn của người dân. Trước đây, không có nước sạch, người dân phải dùng nước giếng.
Theo những người dân sống trên huyện đảo từ năm 1987 đến nay, giai đoạn đó cuộc sống ở Cô Tô rất vất vả, thiếu thốn đủ bề, thắp sáng bằng đèn dầu hoặc đèn bão có bóng kín, quai xách vì gió to, rau hiếm và khó canh tác do chim phá, nước ngọt rất hạn chế, chủ yếu lấy từ vài giếng khơi do người Hoa để lại...

Nhưng giờ đây đã khác. Anh Nguyễn Văn Hiếu không giấu được niềm tự hào khi nhắc về dấu mốc quan trọng năm 2017: Huyện khởi công hồ Trường Xuân với dung tích hơn 121.000m³ theo chỉ đạo khẩn trương của lãnh đạo tỉnh. “Từ hồ đầu tiên đó, chúng tôi mới thật sự hiểu giá trị sống còn của việc tích trữ nước ngọt phục vụ đời sống nhân dân trên đảo” - anh Hiếu chia sẻ.
Sau Trường Xuân, nhiều hồ khác như C4.2, Chiến Thắng 1 và 2, hồ Ông Thanh tiếp tục được đầu tư, hình thành hệ thống cấp nước quy mô và bài bản hơn. Theo anh Hiếu, dù nước đảm bảo cho sinh hoạt và du lịch nhưng không phải là nước thủy sinh tự nhiên mà hoàn toàn là nước mưa được hứng lại, phụ thuộc vào thời tiết. Nguồn nước mưa từ cơn bão tháng 9/2024 vẫn đang là nguồn chính được sử dụng đến thời điểm này”.
Cùng với mở rộng hạ tầng hồ chứa, công tác vận hành, quản lý nguồn nước sạch ngày càng chuyên nghiệp hơn. Hệ thống cấp nước được theo dõi bằng thiết bị đo đếm lưu lượng, vận hành khoa học và phủ khắp các khu dân cư. Tuy nhiên, theo anh Hiếu, khó khăn vẫn còn bởi “Một số trạm đặt xa, dòng điện yếu, khiến chỉ một trong hai trạm bơm có thể hoạt động, làm công suất không đạt yêu cầu, nhất là mùa cao điểm du lịch”.

Tình trạng hút nước bằng bơm tăng áp tại các hộ kinh doanh làm áp lực nước yếu, nhiều hộ cuối nguồn chỉ nhận nước chảy nhỏ giọt hoặc mất nước. Hệ thống hồ C4, Trường Xuân đều nằm trên đồi cao để tạo áp lực nước nhưng vẫn gặp khó khăn cấp nước do địa hình cao. Vào mùa khô kéo dài, nước bốc hơi, thất thoát hoặc ngấm xuống đất làm trữ lượng giảm nhanh.
“Chúng tôi chỉ có 6 người phụ trách toàn bộ công việc kỹ thuật, vận hành và quản lý cả Cô Tô lớn và Thanh Lân. Ngoài vận hành, anh em còn trực tiếp mở rộng mạng ống, sửa chữa, đấu nối, ghi số nước... làm tất cả” - anh Hiếu nói thêm.
Cũng theo anh Hiếu, khó khăn lớn khác là tiếp nhận hệ thống đường ống cũ không đồng bộ, thiếu bản vẽ thiết kế khiến việc sửa chữa, quản lý mất nhiều thời gian. Trong khi nhu cầu nước ngày càng tăng, đặc biệt khi du lịch phát triển nhanh, nguồn cung chỉ trông chờ vào trời mưa. Anh kể, có thời điểm cao điểm năm 2024, huyện phải cử lãnh đạo kiểm tra nguồn nước dự trữ, áp dụng các biện pháp điều tiết linh hoạt như cắt luân phiên, ưu tiên cấp nước ban đêm khi nhu cầu thấp, hạn chế cấp đầu nguồn để cuối nguồn có nước. “Du khách đến đông, trời nắng đẹp, người dân vui, còn chúng tôi thì lo, có khi chỉ biết hóng... trời mưa!” - anh Hiếu cười.
Cô Tô có địa hình bị chia cắt bởi biển, dân cư phân tán trên các bán đảo, đảo nhỏ nên hệ thống cấp nước đòi hỏi linh hoạt và phủ rộng. Hiện mạng lưới nước sạch do Ban Quản lý Dịch vụ công ích quản lý đã "phủ sóng" toàn bộ 3 địa bàn hành chính: Thị trấn Cô Tô, xã Đồng Tiến và xã Thanh Lân, đảm bảo cấp nước sinh hoạt cho toàn dân cư đô thị và nông thôn. Ngoài ra còn có 66 cơ quan, trường học, đơn vị hành chính và cơ sở dịch vụ du lịch sử dụng nước từ mạng lưới này.
Mạng lưới ống dẫn dài hơn 40km, xuyên suốt từ các trạm đầu mối qua đồi dốc, ven biển đến từng cụm dân cư, được xem như “mạch ngầm” kết nối, thu hẹp khoảng cách hạ tầng giữa trung tâm và vùng xa, giữa cư dân đô thị và những hộ dân bám biển. Không chỉ phục vụ sinh hoạt, hệ thống còn đảm bảo công tác phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, vận hành trung tâm thương mại và cảng biển - nơi mỗi ngày đón hàng nghìn lượt khách du lịch và tàu thuyền ra vào. Một số khu vực địa hình chưa thuận lợi được bổ sung đường ống nhánh, trạm bơm tăng áp, mở rộng mạng lưới từng bước theo quy hoạch.

Đằng sau những con số là hệ thống giám sát chặt chẽ, hoạt động 24/7, theo dõi lưu lượng, kiểm tra máy phát điện dự phòng, bảo trì định kỳ các bộ lọc, thay thế ống dẫn, lắp đồng hồ lưu lượng... Tất cả nhằm duy trì hệ thống cấp nước an toàn, không gián đoạn. Nhờ đó, tổng sản lượng nước sinh hoạt năm 2024 đạt trên 412.000 m³, tăng hơn 5% so với năm trước. Tỷ lệ người dân dùng nước sạch, hợp vệ sinh đạt 100%.
Không dừng lại, Ban Quản lý Dịch vụ công ích huyện Cô Tô còn tích cực chuyển đổi số trong thu tiền nước, lắp hệ thống camera giám sát tại các trạm, phối hợp ngân hàng tạo mã QR phục vụ thanh toán không tiền mặt, hiện chiếm hơn 75% giao dịch thu tiền nước mỗi tháng. Đây là bước tiến thể hiện ngành nước trên đảo không chỉ giữ được dòng chảy mà còn đang hiện đại hóa. Anh Hiếu kỳ vọng: Chúng tôi mong sớm được đầu tư hoàn thiện các hồ chứa mới như hồ C22 gần 300.000m³ và đặc biệt là sớm lắp đặt trạm biến áp riêng để giải quyết bài toán thiếu điện cho trạm bơm.
Ý kiến ()