
Ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh
Bắt nhịp xu thế phát triển, thời gian qua các đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh đã tập trung ứng dụng KHCN, chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh. Từ đó, đã từng bước hiện đại chu trình, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm cũng như sự phát triển bền vững của đơn vị, doanh nghiệp.
Những năm qua, các đơn vị, doanh nghiệp nông nghiệp trong tỉnh xác định, nền tảng số được kết nối và vận hành hiệu quả sẽ giúp nông nghiệp từng bước hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và thực sự trở thành trụ cột phát triển kinh tế bền vững của nền kinh tế. Để hiện thực hóa Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, giai đoạn 2025-2030, nhiều doanh nghiệp trong tỉnh, nhất là doanh nghiệp lĩnh vực thủy sản đã chủ động ứng dụng KHCN, chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu quả, gia tăng giá trị sản xuất. Điển hình, Công ty CP Tập đoàn nhựa HDPE Trường Phát, toàn bộ hệ thống lồng bè nuôi trồng thủy sản của đơn vị với diện tích 5ha tại đảo Phất Cờ (đặc khu Vân Đồn) được làm từ chất liệu nhựa HDPE, được lắp ráp từ nhiều modun, mỗi modun có số hiệu và dữ liệu để tìm kiếm. Đơn vị áp dụng công nghệ AI phân tích sự bắt mồi của thủy sản cùng hạ tầng đồng bộ để thực hiện cho ăn tự động đảm bảo lượng thức ăn phù hợp, hạn chế tối đa thức ăn dư thừa, tác động đến môi trường biển; hiện đại hoá, công nghệ hoá, tin học hóa sản phẩm.
Còn với Công ty TNHH Việt Úc - Quảng Ninh, đơn vị tiên phong trong lĩnh vực ứng dụng KHCN, chuyển đổi số trong đầu tư xây dựng khu phức hợp sản xuất giống tôm công nghệ cao tại xã Đầm Hà, công suất 8 tỷ con giống/năm với hệ thống phòng xét nghiệm, lọc nước tự động đạt chuẩn quốc tế giúp kiểm soát chặt chẽ chất lượng giống. Công ty đã nghiên cứu, chọn lọc và lai tạo thành công tôm bố mẹ chịu lạnh, có thể phát triển tốt trong điều kiện mùa đông miền Bắc. Điều này không chỉ giúp người nuôi tôm duy trì sản xuất quanh năm, qua đó cũng tiết kiệm chi phí và tăng chu kỳ sản xuất.
Song song với công tác nuôi trồng, toàn tỉnh còn có 100% tàu cá đánh bắt hải sản được lắp thiết bị giám sát hành trình (VMS) và đưa vào quản lý, triển khai “Hệ thống truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác điện tử eCDT”. Đồng thời, cấp được 1.332 tài khoản và 2.489 mã Qr-code cho các sản phẩm nông sản, thủy sản, duy trì hiệu quả phần mềm “Hệ thống cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc thực phẩm nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” liên thông đồng bộ với Bộ NN&MT.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực trồng trọt, Sở NN&MT thời gian qua cũng đồng hành, hướng dẫn người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp thiết lập, xây dựng mã vùng trồng, mã cơ sở đóng gói cho một số cây trồng, sản phẩm chủ lực của tỉnh. Toàn tỉnh đã cấp được 67 mã số vùng trồng với tổng diện tích trên 1.532ha. Các mã số vùng trồng được cập nhật trên phần mềm dữ liệu trồng trọt của Cục Trồng trọt và Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&MT). Sở cũng phối hợp với đơn vị chuyên môn duy trì chuẩn hóa dữ liệu vùng trồng bằng phương pháp OTAS cho các vùng trồng vải chín sớm Phương Nam, quế, hồi, ổi. Toàn bộ dữ liệu các vùng trồng được chuẩn hóa và cập nhật lên hệ thống OTAS bằng công nghệ điện toán đám mây phục vụ truy xuất nguồn gốc và xác thực thông tin 24/7, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.

Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp trong ngành Than cũng chủ động ứng dụng KHCN và chuyển đổi số trong sản xuất. Điển hình, Công ty CP Than Hà Tu ứng dụng số hóa hồ sơ thiết bị, theo dõi giờ hoạt động, lịch bảo dưỡng và tình trạng kỹ thuật, giúp công tác quản lý của Công ty được chính xác và chủ động hơn. Đồng thời, áp dụng hệ thống định vị GPS để kiểm soát lộ trình di chuyển của thiết bị, qua đó tối ưu hóa lịch trình vận hành, tiết kiệm chi phí và giảm hao mòn. Tại Công ty Than Thống Nhất, ứng dụng hiệu quả các phần mềm như: Quản lý văn bản và điều hành E-office tích hợp chữ ký số và trục liên thông; phần mềm ca lệnh sản xuất; phần mềm kế toán ESOFT sử dụng online; phần mềm quản lý vật tư sử dụng trên nền tảng web; phần mềm thiết kế - tính toán khối lượng mỏ (HMO); phần mềm quản lý nhân sự; phần mềm quản lý thiết bị cơ điện - vận tải, hệ thống thông báo trạm kiểm soát khí mỏ MineSCADA, hệ thống tuyên truyền trực quan E-Home sử dụng trên nền tảng web…
Việc các đơn vị, doanh nghiệp chủ động ứng dụng KHCN, chuyển đổi số từng bước hiện đại hóa, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm…
Tỉnh xác định, chuyển đổi số trong sản xuất, kinh doanh cần phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, việc ứng dụng chuyển đổi số không chỉ dừng lại ở cơ sở dữ liệu mà được thông minh hóa trong từng khâu, từng chuỗi giá trị sản phẩm. Theo đó, tỉnh tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư các dự án KHCN.
Tháng 6/2025, UBND tỉnh ban hành chương trình thu hút đầu tư các dự án KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, công bố danh mục các dự án trọng điểm để đón dòng vốn chất lượng cao trong và ngoài nước. Tỉnh ưu tiên kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ tiên tiến như công nghiệp điện tử, vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo, nông nghiệp thông minh, công nghiệp văn hóa và kinh tế số. Đồng thời chú trọng đầu tư phát triển các lĩnh vực hạ tầng mềm như phát triển nguồn nhân lực, đào tạo chuyên gia, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ...
Cũng trong tháng 6, Sở KH&CN tổ chức hội nghị Cà phê công nghệ năm 2025 với chủ đề “Nghiên cứu xây dựng nghị quyết về chính sách ưu đãi, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo, đổi mới công nghệ tỉnh Quảng Ninh”. Hội nghị có 28 ý kiến góp ý trực tiếp và bằng văn bản của các doanh nghiệp nhằm hoàn thiện dự thảo nghị quyết, tạo công cụ pháp lý quan trọng thu hút đầu tư công nghệ và hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cấp tỉnh.
Ý kiến ()