
Thiền sư chùa Non Đông trong sách sử Phật giáo
Chùa Tường Quang được xây dựng vào năm 1285 thời Trần, dưới chân núi Đông Sơn, thuộc phường Mạo Khê (TP Đông Triều), chùa còn có tên gọi là chùa Non Đông (Non Đông là một âm nôm của Đông Sơn). Tại chùa đã có các bậc cao tăng trụ trì, góp phần vào sự hưng thịnh của Phật giáo nước ta. Chùa là một điểm trong Di tích lịch sử quốc gia Mỏ than Mạo Khê...

Theo sách "Thiền sư Việt Nam", của Hòa thượng Thích Thanh Từ xuất bản năm 1972, tái bản năm 1991, chùa Non Đông có 3 thiền sư. Đầu tiên là Quốc sư Quán Viên (cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV), được ghi ngay sau Thiền sư Huyền Quang - Tổ thứ ba Thiền phái Trúc Lâm. Sách ghi tích thiền sư hiệu là Quán Viên ở chùa Đông Sơn, giới hạnh thanh bạch, tuệ giải tròn đầy, mấy mươi năm mà không xuống núi. Thiền sư đã chữa bệnh đau mắt cho vua Trần Anh Tông (1293-1314) và được vua phong chức Quốc sư. Được ban thưởng rất hậu, thiền sư đều đem phân phát hết không để lại một đồng nào, vẫn mặc y vá trở về núi, dường như chẳng quan tâm. Từ sau đó, thiền sư đi khắp núi sông châu huyện làng mạc, nếu ở đâu có miếu thờ thần không chính đáng, làm hại dân, đều bị thiền sư quở trách đuổi đi, dẹp phá miếu... Theo văn bia lập năm 1331 ghi công đức của thiền sư hiện lưu giữ tại chùa, thiền sư họ Vương, hiệu Quán Viên, tự Tuệ Nhẫn, sinh năm 1257, quê xã Dưỡng Mông, huyện Kim Thành (Hải Dương), mất ngày 27 tháng Giêng năm Ất Sửu năm 1325, được tôn Thánh tổ Non Đông.

Thiền sư thứ hai là Ni sư Tuệ Thông (giữa thế kỷ XIV). Ni sư họ Phạm, con gái của một gia đình đời đời làm quan. Ni sư xuất gia tu ở am trên núi Thanh Lương. Tu khổ hạnh, trì giới chuyên cần, tuệ giải thông suốt, thường ngồi thiền định, diện mạo giống hệt La hán. Kẻ đạo người tục xa gần đều kính mộ, danh tiếng Ni sư lừng lẫy, là bậc tông sư của ni chúng cả nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc cao tăng. Vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) ban hiệu là “Tuệ Thông đại sư”. Về già, Ni sư dời về ở Đông Sơn. Một hôm, Ni sư bảo đệ tử rằng: Ta muốn đem tấm thân hư ảo này thí cho hổ lang một bữa no, rồi vào xếp bằng giữa núi sâu, không ăn uống 21 ngày, hổ lang ngày ngày tới ngồi chung quanh nhưng không dám đến gần. Đồ đệ cố mời nhà sư trở về am. Sư đóng sập cửa nhập định qua một mùa hè, rồi tập hợp đám đệ tử lại để giảng đạo, bỗng nhiên ngồi mà hóa tuổi ngoài 80, lúc hỏa táng có rất nhiều xá lị. Quan sở tại đã xây tháp cho sư ngay trên núi.
Trước đó Ni sư dặn các đệ tử: Sau khi ta đi, nên chia bớt xương ta lại đây để mài mà rửa tật bệnh cho người đời. Đến lúc nhặt xương, mọi người thấy không nỡ, bèn cho hết vào hộp niêm lại. Qua một đêm, bỗng được một xương cùi tay trên bàn, bên ngoài hộp, mọi người đều ngạc nhiên về sự linh nghiệm của nhà sư. Về sau, phàm có người mắc bệnh đến khẩn cầu, đệ tử đem chiếc xương này mài với nước cho bệnh nhân rửa, không ai là không khỏi bệnh. Sách không ghi Ni sư mất ngày nào.

Thiền sư thứ ba là Thiền sư Tông Diễn hiệu Chân Dung (1640-1711). Đời pháp thứ 37, tông Tào Động. Sách ghi tích, Thiền sư Tông Diễn không biết tên tục, quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giàng. Khi thiền sư còn bé cha mất sớm, mẹ tảo tần buôn gánh bán bưng để nuôi con. Năm 12 tuổi, bà mẹ gánh hàng ra chợ bán, dặn con đã mua sẵn một giỏ cáy để ở ao, trưa nay giã cáy nấu canh. Khi thiền sư đem giã cáy nấu canh, nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, thiền sư mang lại ao thả hết. Trưa bà mẹ về, bà không thấy món canh cáy liền hỏi thì thiền sư thưa: Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết. Bà mẹ giận, lấy roi đánh. Sợ quá, thiền sư chạy một mạch không dám ngó lại. Bà mẹ đuổi theo không kịp, mệt lả đi trở về, thế là con trai bà mất luôn. Khoảng hơn ba mươi năm sau, khi đã thành Hòa thượng trụ trì, thiền sư nhớ đến mẹ liền về quê cũ tìm kiếm. Gặp bà bán nước trà, thiền sư vào quán hỏi thăm lai lịch bà lão. Bà thở dài than: Tôi chồng mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi 12 tuổi. Thiền sư mời bà về chùa để nương bóng từ bi trong những ngày già yếu bệnh hoạn. Ban đầu bà lão không dám nhận lời, sau đó bà lão thấy thầy có lòng tốt thì đồng ý.
Về chùa, thiền sư họp tăng chúng hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều động lòng từ bi đồng ý mời bà lão về chùa. Thiền sư cho cất một am tranh gần chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe, thiền sư luôn nhắc nhở bà tu hành. Thời gian sau, bà lão bệnh, thiền sư cảm biết bà không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng năm bảy hôm. Trước khi đi, dặn dò trong chúng: Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng tăng nên để bà trong áo quan đừng đậy nắp, đợi tôi về sẽ đậy sau.
Bốn năm hôm sau, bà lão tắt thở. Tăng chúng làm đúng như lời dặn, chỉ để bà trong áo quan mà không đậy nắp. Vài hôm sau thiền sư về, vào nhìn mặt lần chót rồi đậy nắp quan lại. Thiền sư nói to: Như lời Phật dạy, một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.
Thiền sư cầm tích trượng gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Khi đó mọi người mới biết bà lão là mẹ của thiền sư.
Thiền sư Tông Diễn mất ngày 16 tháng 7 năm Tân Sửu (1711), thọ 72 tuổi. Hỏa táng xong, các đệ tử thu xá lợi xây tháp ở Đông Sơn để thờ.
Chùa Non Đông đã có những bậc tu hành đạo hạnh, tấm lòng hiếu đạo cùng nguyện lực cao cả, công hạnh vô ngã vị tha trụ trì để Phật pháp trường tồn cùng dân tộc. Gia sản quý báu của các thiền sư đã để lại những giá trị vĩnh cửu của Phật giáo với tư cách vừa là một học thuyết giải thoát về cách sống lương thiện tốt đẹp cho con người, vừa là một học thuyết qua tinh thần Tứ Ân, đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành nền tư tưởng, văn hóa dân tộc Việt Nam.
Ý kiến ()