
“Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc” – lời căn dặn sâu sắc của Bác Hồ với cán bộ ngành Than tháng 11/1968 đã thôi thúc hàng vạn công nhân mỏ Quảng Ninh vượt qua mưa bom, bão đạn, duy trì nhịp độ khai thác liên tục, phục vụ kháng chiến. Với khí thế thi đua sôi nổi, tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai”, ngành Than Quảng Ninh đã tổ chức sản xuất chặt chẽ, khoa học, góp phần chi viện đắc lực cho tiền tuyến miền Nam, đóng góp quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Hai mươi năm (1955-1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta bước vào giai đoạn lịch sử hào hùng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong đó, khu Hồng Quảng, tỉnh Hải Ninh, từ năm 1963 là tỉnh Quảng Ninh có vị trí chiến lược đặc biệt, nơi công nhân mỏ và nhân dân các dân tộc phát huy cao độ tinh thần yêu nước, vượt lên mọi gian khổ, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Khẩu hiệu "Sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc" trở thành tiếng gọi thiêng liêng đối với thợ mỏ Quảng Ninh. Trong không khí thi đua sôi nổi đầu thập niên 60 thế kỉ XX, phong trào lao động sản xuất lan rộng khắp các mỏ. Ngành Than đẩy mạnh cơ khí hóa, tăng cường quản lý kinh tế, đưa năng suất lên tầm cao mới. Các tổ máy xúc, vận tải, thợ lò liên tục phá kỷ lục. Kết thúc năm 1963, toàn khu mỏ hoàn thành kế hoạch với sản lượng 3.897.947 tấn, đạt 100,2% kế hoạch Nhà nước giao - cao nhất từ trước đến nay. Một số mỏ hoàn thành chỉ tiêu từ ngày 16/12/1963, tạo khí thế thi đua khẩn trương, hối hả chuẩn bị bước vào năm mới.
![]() |
Ngày 30/3/1959, Bác Hồ thăm Công trường khai thác than mỏ Đèo Nai. Ảnh tư liệu.
|
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công ty than Hòn Gai (bao gồm từ mỏ Mạo Khê, Đông Triều đến Mông Dương, Cẩm Phả) phát động chiến dịch thi đua "Mỗi người làm việc bằng hai", "Điện Biên - Ấp Bắc". Ngày 16/12/1964, Công ty hoàn thành kế hoạch trước 15 ngày với 3,2 triệu tấn than sạch, vượt 6% so với kế hoạch. Mỏ Đèo Nai là đơn vị lập công xuất sắc nhất trong chiến dịch thi đua mang tên Điện Biên Phủ, dẫn đầu về năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Các mỏ Hà Lầm, Hà Tu, Mạo Khê, đã lập được kỷ lục mới.
Ngày mùng 1 Tết Ất Tỵ (02/02/1965), Bác Hồ về thăm Quảng Ninh, chúc Tết đồng bào, biểu dương tinh thần đoàn kết, sản xuất, tiết kiệm. Bác căn dặn: Năm nay mức Nhà nước định là 5 triệu tấn than sạch. Trong đó, Công ty than Hòn Gai phụ trách sản xuất 4 triệu tấn, tức 75%, nhiều hơn năm ngoái. Khó khăn thì có khó khăn nhưng Bác tin chắc rằng các cô các chú sẽ phát huy tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai” tiếp tục khí thế thắng lợi năm ngoái, khắc phục mọi khó khăn và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ năm nay.
Thực hiện lời căn dặn của Người và thực hiện phong trào thi đua “Làm theo lời Bác” của Tỉnh uỷ Quảng Ninh phát động, công nhân ngành Điện, Than ra sức sản xuất, nhiều đơn vị, cá nhân làm đơn tình nguyện đăng ký vượt chỉ tiêu sản lượng, tăng năng suất lao động. Từ phong trào thi đua sôi nổi ấy, nhiều cá nhân tiêu biểu đã vươn lên trở thành những Anh hùng Lao động (AHLĐ) - biểu tượng sáng ngời của tinh thần người thợ mỏ trong thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu.
![]() |
Mỏ Đèo Nai được Bác Hồ tặng “Cờ thưởng luân lưu Thi đua khá nhất” vào mùa Xuân năm 1965. Ảnh tư liệu. |
Điển hình như AHLĐ Vũ Xuân Thủy, tổ trưởng tổ máy xúc EKG số 1. Ông là thợ lái máy xúc đầu tiên khéo áp dụng kinh nghiệm tiên tiến của Liên Xô thành phương pháp liên hợp “Xúc nhanh, quay nhanh, đổ nhanh”, ăn ý nhịp nhàng, kết hợp một cách khoa học giữa máy xúc và xe tải, đưa năng suất bốc xúc từ 1.300m³ lên 2.560m³/ca, tương đương các nước tiên tiến, lập kỷ lục chưa từng có trên khu mỏ. Thành tích nổi bật nhất là vào năm 1961, tổ của ông hạ moong Cọc Sáu đúng tiến độ, vượt kế hoạch hơn 30%. Ông trở thành điển hình tiên tiến của Vùng mỏ và cả nước, vinh dự đứng trong đoàn Đại biểu công nhân mỏ Cọc Sáu báo cáo thành tích với Bác Hồ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (ngày 05/9/1960) và được phong AHLĐ năm 1962, được tặng Huân chương Lao động hạng Nhất.
Còn AHLĐ Vũ Hữu Sơn là người luôn áp dụng các phương pháp khoan tiên tiến, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật. Nhiều sáng kiến của ông đã được ghi nhận và đánh giá cao, như: Đặt làm ống thép định hướng, ống chống lở, khoan khô, khoan nước theo cùng gương tầng độ rắn khác nhau, lấy phoi khoan phải lấy sạch, tận dụng cáp thép có chất lượng tốt hơn. Nhờ có nhiều sáng kiến, ông trở thành lá cờ đầu trong phong trào "Luyện tay nghề, giữ máy tốt". Năm 1967, ông được phong tặng danh hiệu AHLĐ - người thợ khoan tiên phong của vùng mỏ Đèo Nai.
AHLĐ Nguyễn Văn Vỡi lại áp dụng việc tổ chức sản xuất “4 ca gối đầu”. Tổ lò chợ của ông luôn đạt kỷ lục trong đào lò than, mỗi ca đều đào được 15-17m trong điều kiện lò dốc và rất nóng để khai thác và đưa than ra lò. Luôn là tấm gương sáng lao động trong lò than và động viên anh em thợ lò đoàn kết, giữ vững sản xuất với năng suất cao, khai thác thật nhiều than để xây dựng đất nước, ông trở thành AHLĐ đầu tiên của mỏ Mạo Khê, tiêu biểu cho thế hệ thợ mỏ gắn bó với kỹ thuật và sáng kiến.
![]() |
"Cờ thưởng luân lưu Thi đua khá nhất" của Bác Hồ được lưu giữ tại phòng truyền thống Công ty Than Thống Nhất - TKV. Ảnh: Than Thống Nhất - TKV. |
Ngoài ra, còn rất nhiều tấm gương của tinh thần lao động, sáng tạo, xông pha giữa gian khó, được Bác Hồ biểu dương, như: Lê Văn Lệ, Lê Văn Thiết, Trần Văn Thanh, Vũ Xuân Quý,... “Họ là những chiến sĩ đang làm kiểu mẫu tốt cho mọi người học theo” - Bác Hồ đã biểu dương những công nhân này trên báo Nhân Dân ngày 16/2/1962, như thế…
Giai đoạn 1965-1968, toàn ngành Than vừa sản xuất vừa chiến đấu, đúng như khẩu hiệu "tay cuốc, tay súng", “Sản xuất than như quân đội đánh giặc”. Không khí thi đua lao động, bảo vệ nhà máy, hầm mỏ diễn ra khắp các phân xưởng, lò chợ, bãi vận chuyển. Công nhân làm ca kíp liên tục, ban đêm ánh đèn điện sáng rực lò sâu, bãi than, vang lên tiếng máy xúc, máy khoan không ngơi nghỉ. Chỉ trong quý I/1965, mỏ Đèo Nai và Cọc Sáu hoàn thành kế hoạch trước 27 ngày; Bến Cửa Ông cũng về đích trước 24 ngày. Hưởng ứng lời Bác Hồ căn dặn đầu năm, các đơn vị không chỉ vượt sản lượng mà còn tiết kiệm nhiên liệu, vật tư, bảo đảm an toàn. Bác đã gửi điện khen ngợi từng đơn vị, coi đây là động lực lớn khích lệ tinh thần toàn ngành.
Năm 1966, phong trào thi đua "Mỗi người làm việc bằng hai", "Ba điểm cao" (năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều), "Ba tìm" (tìm hiện tượng, tìm nguyên nhân, tìm biện pháp để nâng cao chất lượng than) lan rộng. Năm 1967, phát động chiến dịch "Vì miền Nam ra quân quyết thắng", năm 1968 là "Mùa xuân thắng Mỹ". Cùng với tiếng pháo giao thừa là tiếng máy khoan, máy xúc vẫn vang đều trong lòng đất. Lực lượng công nhân mỏ đã đón Tết trên công trường, lò chợ, không ngơi nghỉ để kịp tiến độ giao than cho Nhà nước. Nhiều đơn vị như mỏ Cọc Sáu, Hà Tu, Vàng Danh, Cửa Ông đã hoàn thành vượt mức kế hoạch quý I ngay từ tháng 2. Những đợt thi đua ngắn ngày với khí thế "chiến dịch" liên tục được phát động, đẩy nhanh tiến độ bóc đất, khai thác và vận chuyển than, phục vụ kịp thời cho nhu cầu chiến trường miền Nam và công nghiệp miền Bắc.
![]() |
Tranh thủ thời gian giặc Mỹ tạm ngừng ném bom bắn phá, công nhân mỏ Đèo Nai tích cực sản xuất than phục vụ trong nước và xuất khẩu (năm 1964). Ảnh tư liệu. |
Đến tháng 5/1966, giặc Mỹ đánh phá ác liệt các mỏ trọng điểm. Tổng công ty Than Quảng Ninh đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn; máy móc, thiết bị sử dụng trong khai thác phải tiếp tục sơ tán để đảm bảo an toàn, đời sống của cán bộ, công nhân gặp thiếu thốn; số cán bộ, công nhân của các đơn vị sản xuất phải tham gia trực chiến quá nhiều, lực lượng lao động không được bổ sung để duy trì sản xuất thường xuyên theo kế hoạch đã định,... Sản lượng than giảm: Năm 1965 đạt 3,7 triệu tấn, năm 1967 chỉ còn 1,7 triệu tấn; bốc xúc đất đá giảm từ 20 triệu m³ còn 5,5 triệu m³.
Tuy vậy, các đơn vị, cá nhân vẫn luôn sẵn sàng “tay cuốc, tay súng”, vượt qua mọi gian khó. Từ 1964-1968, Công ty than Hòn Gai tận dụng 180 tấn thép phế liệu, chế tạo 1.500 mặt hàng, tự lắp máy điện 1.800kW/h, chế máy khoan Son Dan. Mỏ Mạo Khê phục hồi đầu tàu 11, 12; Hà Tu cải tiến rửa xe giảm từ 1 giờ xuống 10 phút. Lực lượng thanh niên đã phát huy nhiều sáng kiến trong quản lý các công trình có chất lượng tốt, như: Công trình 26/3, đường lò 2/9 và Vạn Tường mỏ Thống Nhất; công trình tự thiết kế khai thác 150 tấn than của thanh niên vận tải Cẩm Phả; công trình thanh niên phá đồi 370 Bắc Bàng Gianh, bốc 6.000m3 đất đá, lấy than moong Bình Giã từ 62.000 tấn lên 112.000 tấn than sạch trước mùa mưa của thanh niên Hà Tu...
![]() |
Tổ máy xúc EKG1 công trường Bà Rịa, mỏ Cọc sáu nhiều năm đạt danh hiệu "Tổ lao động xã hội chủ nghĩa". Ảnh tư liệu. |
Đặc biệt, ngày 15/11/1968, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và nói chuyện với các đại biểu, cán bộ, công nhân ngành Than. Người hoan nghênh những cố gắng bước đầu của công nhân, cán bộ ngành Than và nêu bật tầm quan trọng của than đá. Người căn dặn: “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội càng cần rất nhiều than. Toàn thể công nhân và cán bộ phải có nhiệt tình cách mạng và tinh thần yêu nước rất cao, ý chí quyết đánh quyết thắng rất vững, phải đoàn kết nhất trí, phải có đầy đủ ý thức làm chủ Nhà nước, làm chủ xí nghiệp, vượt mọi khó khăn, nhằm vào một mục đích chung là sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc. Như thế mới thật xứng đáng với đồng bào và chiến sĩ miền Nam đang anh dũng chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai bán nước”.
Lời căn dặn của Bác như một mệnh lệnh thiêng liêng, tiếp thêm động lực để toàn ngành Than thi đua lập nhiều thành tích, góp phần làm nên những kết quả nổi bật vào cuối năm 1968 và tạo đà cho bước chuyển mình mạnh mẽ từ năm 1970. Cuối năm 1968, các đơn vị: Mỏ Hà Tu, Cọc Sáu, Mạo Khê, tuyển than Cửa Ông, nhà máy cơ khí Cẩm Phả được tặng "Cờ thưởng luân lưu". Xí nghiệp Bến Cửa Ông nhận cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Năm 1969, giá trị tổng sản lượng đạt 102%; năm 1971, các mỏ Hà Lầm, Cọc Sáu, Vàng Danh hoàn thành kế hoạch…
Từ năm 1970, ngành Than bước vào thời kỳ phục hồi và tăng tốc sau giai đoạn bị đánh phá ác liệt. Các hội thao kỹ thuật được tổ chức sôi nổi với tên gọi "Lập công đền ơn Bác Hồ", thu hút hàng nghìn lượt công nhân tham gia thi đua tay nghề: Thợ lò giỏi, máy xúc giỏi, khoan giỏi, lái xe giỏi... Kết quả không chỉ là những danh hiệu mà còn giúp nâng cao chất lượng đội ngũ, áp dụng sáng kiến cải tiến vào thực tế sản xuất. Đơn cử như tổ máy xúc EKG đã nâng thời gian làm việc từ 13 giờ 30 phút năm 1970 lên 14 giờ 54 phút năm 1971 - một bước tiến đáng kể về năng suất. Toàn Công ty than Hòn Gai đạt mức tăng năng suất bình quân 20,9% - một con số ấn tượng giữa bối cảnh đất nước còn nhiều gian khó. Từ 1973-1975, Liên đoàn địa chất IX khoan 152.865 mét máy, mở rộng khảo sát, góp phần nâng sản lượng. Năm 1975, than nguyên khai đạt 101,1%, than sạch 109%, than cục 103%, giá thành than sạch giảm 2% so với 1974.
Hai mươi năm vừa sản xuất vừa chiến đấu, ngành Than Quảng Ninh thực sự là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam. Bằng ý chí, sáng kiến và sức mạnh “Kỷ luật và Đồng tâm”, công nhân mỏ đã chứng minh rằng "sản xuất cũng là chiến đấu", đó là chiến đấu vì một đất nước thống nhất, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.
![]() | |
![]() | ![]() |
![]() | ![]() |
![]() |
Thực hiện: Hoàng Nhi
Trình bày: Vũ Đức
Ý kiến ()