
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Quảng Ninh là một trong các chiến trường chính ở Bắc Bộ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Quảng Yên, Hải Ninh và đặc khu Hòn Gai đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ toàn dân, toàn diện, vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, làm thất bại mọi âm mưu chiếm đóng và bình định của địch. Qua đó, góp phần cùng quân và dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
3 tháng sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 11/1945, Quảng Ninh đã có những bước chuyển biến cơ bản về phương diện quản lý địa lý, hành chính và tổ chức lãnh đạo Đảng. Hai trong số ba vùng lãnh thổ cơ bản của tỉnh là tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai đã có các ban cán sự trực tiếp lãnh đạo phong trào của từng địa phương với tư cách như một cấp ủy Đảng. Từ đây, tạo điều kiện cho phong trào của Quảng Ninh phát triển, tiếp tục tiến lên hoàn thành những nhiệm vụ Cách mạng Tháng Tám đề ra, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến sắp tới. Tuy gặp nhiều khó khăn hơn so với tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai, song đến ngày 6/8/1946, Chi bộ Đảng đầu tiên của Hải Ninh được thành lập tại Đình Lập. Cùng khoảng thời gian này Ủy ban Hành chính tỉnh Hải Ninh được thành lập.
![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên chiến hạm Emile Bertin ở Vịnh Hạ Long ngày 24/3/1946 theo lời mời của G. d'Argenlieu, Cao uỷ Pháp tại Đông Dương để bàn về thi hành Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946. Ảnh tư liệu.
|
Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tiến hành để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành công rực rỡ. Đến đầu tháng 6/1946, nhân dân tỉnh Quảng Yên, đặc khu Hòn Gai và huyện Tiên Yên đã tổ chức bầu cử HĐND các cấp. Sau đó, Ủy ban hành chính các cấp ra đời thay thế cho UBND cách mạng lâm thời trước kia. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử và bầu cử HĐND các cấp đã củng cố vững chắc một bước chính quyền cách mạng ở Quảng Ninh.
Ngày 6/3/1946, Hiệp định Sơ bộ được ký kết giữa Chính phủ ta và Chính phủ Pháp. Theo Hiệp định đầu tháng 4/1946, 15.000 quân Pháp sẽ ra thay thế quân Tưởng ở miền Bắc. Ngày 24/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới Vịnh Hạ Long để hội đàm với G.d'Argenlieu, Cao uỷ Pháp tại Đông Dương trên chiến hạm Emile Bertin để bàn về tiến trình thi hành Hiệp định Sơ bộ nhằm tránh cho một cuộc chiến tranh nổ ra. Đây có thể coi là lần đầu tiên Bác đặt chân tới Vịnh Hạ Long, tới Quảng Ninh.
Ngày 15/4/1946, hơn 1.000 lính Pháp từ miền Nam ra đóng quân ở Hòn Gai, Cẩm Phả và Cửa Ông, thể hiện rõ ý đồ phá vỡ Hiệp định. Chúng ngang nhiên cấm nhân dân đi lại, nổ súng bừa bãi xuống phố, khiêu khích lực lượng tự vệ, bọn chủ mỏ cũng trắng trợn đàn áp, bóc lột công nhân. Công nhân Vùng mỏ đã tham gia “Tuần lễ đình công” biểu tình phản đối thực dân Pháp vào ngày 8/6 và sau đó ngày 7/7/1946, giặc Pháp đã xả súng vào khu dân cư Lán Bè, đốt nhà làm 90 người dân vô tội thiệt mạng. Vô cùng căm phẫn, nhân dân Hòn Gai đã liên tiếp tổ chức các cuộc đấu tranh, tuần hành, tố cáo tội ác của giặc Pháp. Từ đó đến cuối năm 1946, các cuộc đấu tranh chính trị của công nhân khu mỏ liên tiếp nổ ra mạnh mẽ, có nội dung sát hợp hơn và ngày càng gắn với công cuộc chuẩn bị kháng chiến của toàn dân.
Tại tỉnh Hải Ninh, giữa tháng 7/1946, quân Pháp từ Vạn Hoa được sự hỗ trợ của quân phỉ do Voòng A Sáng chỉ huy đã đánh chiếm Tiên Yên. Bộ đội ta phải phân tán lực lượng đối phó nhiều nơi nên không đủ sức đối phó với quân địch. Chiếm được Tiên Yên, quân Pháp sau đó tiến ra Đầm Hà, lên Bình Liêu để thay thế quân Tưởng. Tháng 8/1946, quân Pháp dùng bọn phỉ tổ chức trận càn lớn vào Bản Hà, Khe Mò, Hà Lâu (Tiên Yên) nhưng đã bị Trung đoàn Tiên Yên và du kích kiên quyết đánh trả, bẻ gãy cuộc càn, bảo vệ nhân dân thu hoạch lúa mùa.
Như vậy, từ năm 1946, việc xây dựng lực lượng vũ trang và chuẩn bị kháng chiến của quân dân Quảng Ninh đã có nhiều bước tiến đáng kể. Tiếng súng kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quảng Ninh đã nổ ra sớm, trước 5 tháng so với các tỉnh miền Bắc, mở đầu trang sử kháng chiến của quân và dân Vùng mỏ anh hùng.
![]() |
Lô cốt tại khu 4 (phường Hà Lầm) là nơi Đại đội tự vệ công nhân mỏ đã tấn công vào đêm 24 rạng sáng 25/12/1946. Ảnh: Dương Trường.
|
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Nhân dân Quảng Yên, Hòn Gai, Hải Ninh bước vào cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc. Hưởng ứng sự kiện ấy, 5 ngày sau, vào đêm 24 rạng sáng 25/12/1946 - Trận “Đồn Hà Lầm” một trận đánh thần tốc, bí mật, bất ngờ của tự vệ mỏ đã tiêu diệt 22 binh sĩ Pháp. Đây cũng là trận đánh đầu tiên và lớn nhất của lực lượng vũ trang Khu mỏ trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến.
Ngày 30/12/1946, tại xã Sơn Dương, Đại đội Hồ Chí Minh được thành lập. Đây là đơn vị bộ đội đầu tiên của khu mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả, gồm hầu hết là công nhân và con em công nhân mỏ.
Để thống nhất chỉ đạo kháng chiến, ngày 31/3/1947, liên tỉnh Quảng Hồng được thành lập bao gồm tỉnh Quảng Yên, đặc khu Hòn Gai và các huyện Thủy Nguyên, Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn, Đông Triều. Đồng chí Nguyễn Công Hoà được chỉ định làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Ngày 16/12/1948, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu I đã quyết định tách tỉnh Quảng Hồng thành tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai. Tỉnh Quảng Ninh khi đó lại bao gồm tỉnh Hải Ninh, tỉnh Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai.
![]() |
Nhân dân tỉnh Hải Ninh phục vụ chiến dịch Biên giới 1950. Ảnh tư liệu
|
Từ năm 1947 đến 1950, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, quân và dân Quảng Ninh đã tích cực tham gia kháng chiến toàn dân, đặc biệt nổi bật với phong trào chiến tranh du kích và đấu tranh ở vùng sau lưng địch. Sau ngày kháng chiến bùng nổ, hệ thống tổ chức vũ trang tại địa phương được nhanh chóng kiện toàn với sự hình thành của Tỉnh đội, Huyện đội, dân quân du kích. Ngày 1/5/1947, Tỉnh đội dân quân Quảng Hồng ra đời và sau đó các huyện đội lần lượt được thành lập. Tính đến tháng 10/1947, toàn Liên tỉnh Hồng Quảng đã có 2.598 du kích. Ở tỉnh Hải Ninh, tháng 10/1947, Tỉnh đội dân quân được thành lập và các huyện đội dân quân cũng ra đời.
Những chiến thắng giòn rã của nhân dân Liên tỉnh Quảng Hồng và Hải Ninh cuối năm 1947 đã tạo điều kiện cho công tác trừ gian diễn ra mạnh mẽ trên nhiều địa bàn, làm tan rã bộ máy chính quyền tay sai do Pháp dựng lên.
Sau Chiến dịch Đông Bắc lần thứ nhất (tháng 10/1948), vùng tự do của ta được mở rộng, cơ sở kháng chiến được củng cố, lực lượng lớn mạnh hơn trước. Tháng 3/1949, Trung ương quyết định mở chiến dịch Đông Bắc lần thứ hai, nhiệm vụ của tỉnh Hải Ninh, Quảng Yên và đặc khu Hòn Gai là phối hợp với mặt trận đường số 4 và chiến trường toàn quốc phát triển và củng cố cơ sở Đông Bắc. Mở đầu Chiến dịch Đông Bắc lần thứ hai, chiến thắng Điền Xá (Tiên Yên) ngày 4/3/1949 đã phá thế an toàn của địch ở tuyến đường số 4, góp phần cổ vũ, gây dựng lòng tin cho nhân dân trong vùng.
![]() |
Bức trướng "Ủng hộ kháng chiến" Bác Hồ thay mặt Chính phủ tặng cho Thành hoàng làng Pò Háng, huyện Đình Lập (khi ấy thuộc tỉnh Hải Ninh, nay thuộc Lạng Sơn) năm 1948, hiện trưng bày tại Bảo tàng Quảng Ninh.
|
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn phản công chiến lược, khi quân dân ta trên cả nước chuyển từ thế phòng ngự sang thế chủ động tấn công. Quảng Ninh, với vị trí đặc biệt quan trọng - nơi có cảng biển, tuyến đường than chiến lược, các mỏ than lớn và các khu vực phát triển công nghiệp như Hòn Gai, Cẩm Phả, Mạo Khê, Uông Bí - tiếp tục trở thành một trong những mục tiêu trọng yếu của Pháp. Cùng lúc, phong trào chiến tranh du kích ở Quảng Ninh phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Trong suốt năm 1950, quân và dân Quảng Ninh đã tổ chức hơn 300 trận đánh lớn nhỏ, phá hủy hơn 50 xe quân sự, làm tê liệt nhiều tuyến vận tải, tiêu diệt hàng trăm lính Pháp, buộc địch phải co cụm vào các đồn bốt lớn. Nổi bật, trận tập kích đồn Bình Liêu đêm 24 rạng sáng 25/12/1950 của Trung đoàn 147 đã giải phóng hoàn toàn huyện Bình Liêu, tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Không chỉ có bộ đội, dân quân du kích mà công nhân Vùng mỏ cũng phát huy tinh thần “Biến nhà máy thành chiến trường, biến hầm mỏ thành pháo đài”. Công đoàn mỏ Hòn Gai đã tổ chức hàng loạt nhóm phá hoại bí mật, phá hỏng máy móc, đầu máy, toa xe vận chuyển than của địch. Những hành động đó không chỉ trực tiếp làm sụp đổ kế hoạch vận chuyển than phục vụ chiến tranh của Pháp mà còn chứng minh khí phách quật cường và sáng tạo của giai cấp công nhân Vùng mỏ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Những ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp cũng là giai đoạn quân và dân Quảng Ninh phát huy tinh thần hậu phương “Quyết chiến, quyết thắng” mãnh liệt nhất. Hưởng ứng chủ trương tổ chức, động viên của Đảng, Bác Hồ, với tinh thần “Tất cả vì mặt trận”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, hàng trăm người con ưu tú Đất mỏ Quảng Ninh đã nô nức lên đường tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ; vượt qua muôn vàn gian khó, ngày đêm “bạt rừng xẻ núi”, mở hàng trăm km đường giao thông cho bộ đội, dân công chuyển quân, kéo pháo, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, lập nên biết bao kỳ tích. Theo báo cáo của Ban Cung cấp tỉnh, trong năm 1954, Quảng Ninh đã hoàn thành 118% chỉ tiêu huy động vận tải, trở thành một trong những tỉnh có đóng góp hậu cần lớn nhất cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Nhằm phối hợp với chiến trường chính và căn cứ vào tương quan lực lượng giữa ta và địch ở vùng Đông Bắc, các Đảng bộ Quảng Yên, Hải Ninh và đặc khu Hòn Gai chủ trương kìm chân quân địch trên khắp các địa bàn; bao vây, cô lập, tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch, luồn sâu đánh chắc; khi có điều kiện sẽ tiến công giải phóng đất đai.
![]() |
Đại đội 54, bộ đội tỉnh Hải Ninh trong kháng chiến chống Pháp năm 1953. Ảnh: Tư liệu
|
Bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, phong trào tìm địch mà đánh, diễn ra sôi nổi trên khắp các địa bàn của tỉnh. Ở tỉnh Quảng Yên, bộ đội địa phương và dân quân du kích liên tục tiến công quân địch, đã đánh 400 trận, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu trên 3.500 tên địch. Riêng tiểu đoàn Bạch Đằng đã đánh 23 trận, có hiệu suất tiêu diệt địch rất cao.
Trong Đông Xuân 1953-1954, quân dân tỉnh Quảng Yên kêu gọi được 1.195 lính ngụy đào ngũ. Các mặt công tác khác của tỉnh cũng có nhiều thành tích, trong đó nổi bật là thành tích huy động dân công đi phục vụ tiền tuyến. Từ tháng 1-9/1954, đã có 10.253 lượt người (phần đông ở vùng địch hậu) đi phục vụ cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ngày 30/5/1954, Hội đồng thi đua của Liên khu Việt Bắc đã quyết định tặng cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tỉnh Quảng Yên và tặng cờ “Tiểu đoàn gương mẫu Liên khu” cho tiểu đoàn Bạch Đằng.
![]() |
Cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho quân dân tỉnh Quảng Yên ngày 30/5/1954. Ảnh tư liệu
|
Ở đặc khu Hòn Gai, trong Đông Xuân 1953-1954, lực lượng vũ trang của đặc khu chỉ có 3 trung đội, nhưng đã đánh 68 trận (trung bình 3 ngày 1 trận) diệt 164 tên địch, làm bị thương 77 tên, thu 35 súng, 4 xe quân sự, phá hủy 2 xe khác.
Ở tỉnh Hải Ninh, tháng 2/1954, bộ đội địa phương tỉnh đã tập kích bốt Hồ Thính Coóng, tiến công đồn Thán Phún, địch phải rút quân ở các vùng cao, tập trung xuống các thị trấn ven quốc lộ, ven biển, chuẩn bị rút chạy.
Các Đảng bộ tỉnh Quảng Yên, tỉnh Hải Ninh và đặc khu Hòn Gai đã chủ trương phát động một phong trào quần chúng gọi con em đi lính ngụy trở về; chú trọng giáo dục cho ngụy quân, ngụy quyền và gia đình họ về chính sách khoan hồng của Chính phủ. Nhờ chủ trương kịp thời đúng đắn đó, phong trào đấu tranh chống bắt lính và địch ngụy vận đã diễn ra sôi nổi. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận, quân và dân 3 tỉnh đã làm tan rã một mảng lớn lực lượng vũ trang của địch.
Thắng lợi to lớn của chiến cuộc Đông Xuân mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ có phần đóng góp xứng đáng của nhân dân 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh và Hòn Gai đã đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Đây là thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta, buộc Chính phủ Pháp phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ, nhiều địa phương trên cả nước quyền làm chủ đã về tay nhân dân, nhưng Vùng mỏ vẫn còn 300 ngày là nơi tập kết của quân Pháp.
Đồ họa: Đỗ Quang
Ý kiến ()