
Hiện thực hóa mục tiêu phát triển đảo ngọc Cô Tô
Với xuất phát điểm từ một huyện nghèo, không có điện lưới quốc gia, thiếu nước ngọt, giao thông cách trở với đất liền, Đặc khu Cô Tô hôm nay đã có sự phát triển vượt bậc từ sự quan tâm đặc biệt của Trung ương, của tỉnh cùng với sự nỗ lực, đoàn kết vươn lên của các thế hệ cán bộ, đảng viên, nhân dân gắn bó với vùng biển đảo này. Qua đó, Cô Tô dần vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ, đạt được nhiều kết quả quan trọng trong những năm qua, từng bước hiện thực hoá mục tiêu phát triển đảo ngọc giữa trùng khơi theo lời Bác dạy năm xưa.
Nỗ lực tạo sức đột phá
Ký ức của những cán bộ, người dân thời điểm thành lập huyện đảo Cô Tô năm 1994 vẫn là sự hoang sơ về mọi mặt. Khi ấy, cơ sở hạ tầng của đảo sơ sài, tàu từ đất liền ra đảo hiếm hoi, đường bộ nối các thôn là những con đường mòn cát trắng quanh co. Khi ấy, Cô Tô và Thanh Lân có trên 2.000 dân nhưng đói nghèo đến 85%, đời sống vào loại thấp nhất cả nước. Ngư nghiệp là lĩnh vực có lợi thế, nhưng phương tiện đánh bắt thô sơ, năng suất thấp, đạt khoảng trên 200 tấn hải sản/năm. Nông nghiệp chỉ có hơn 20ha canh tác lúa, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, nên “cung không đủ cầu”. Mùa khô, nguồn nước ngọt vô cùng khan hiếm…

Giờ đây, sau hơn 30 năm thành lập và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Cô Tô đã có bước phát triển vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Bài toán khó nhất với Cô Tô là điện lưới. Năm 2013 đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Cô Tô khi hệ thống điện lưới quốc gia đến đảo (riêng đảo Trần, tháng 9/2020 có điện lưới quốc gia), hiện thực hoá giấc mơ ngàn đời của người dân Cô Tô.
Có điện lưới quốc gia đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, giúp cơ cấu kinh tế địa phương chuyển dịch mạnh mẽ, theo hướng tăng dần tỷ trọng dịch vụ, du lịch, phát triển kinh tế biển xanh, bền vững. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Cô Tô những năm qua luôn duy trì ở mức độ cao (15-16%/năm), đặc biệt là về du lịch, dịch vụ.
Giờ đây, du lịch, dịch vụ ngày càng khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng gần 70% cơ cấu kinh tế của Cô Tô. Thời gian qua, địa phương đã và đang xây dựng, triển khai nhiều nghị quyết, đề án, chương trình, kế hoạch chuyên đề nhằm phát triển du lịch nhanh, bền vững. Hạ tầng du lịch, dịch vụ có bước phát triển; phê duyệt quy hoạch sản phẩm du lịch đa dạng; hệ sinh thái và không gian du lịch được mở rộng ra nhiều đảo trên địa bàn. Cơ sở lưu trú du lịch, dịch vụ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.

Hiện nay, Cô Tô có 2 điểm du lịch được công nhận, 2 bãi tắm đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch, khoảng 300 cơ sở lưu trú du lịch, 30 nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại... Nhiều sự kiện văn hóa, du lịch được tổ chức thành công; mô hình quản lý, khai thác di tích được cải thiện; du lịch cộng đồng có sự khởi sắc. Thời gian lưu trú và chi tiêu của du khách tăng lên, trong đó thời gian lưu trú năm 2020 là 1,7 ngày, đến năm 2025 là 4,2 ngày; mức chi tiêu từ năm 2015 đến năm 2025 tăng từ 1,5 triệu đồng lên 3,2 triệu đồng/người/ngày. Dù chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhưng 5 năm qua, Cô Tô đã đón khoảng 1,2 triệu lượt khách, gấp 1,5 lần giai đoạn trước; doanh thu du lịch ước đạt 3.000 tỷ đồng, tăng 1,8 lần so với giai đoạn 2015-2020.
Vấn đề khó khăn về nước ngọt và cơ sở hạ tầng giao thông cũng được giải quyết tốt, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và phát triển các ngành kinh tế trên địa bàn. Từ một “đảo khát”, đến nay Cô Tô đã từng bước hoàn thành quy hoạch, cải tạo, mở rộng, xây mới các hồ chứa nước trên đảo; nếu lượng mưa ổn định có thể đảm bảo cung cấp đầy đủ nước ngọt sinh hoạt cho nhân dân và du khách trong mùa cao điểm. Cảng bến và đường giao thông được xây dựng đồng bộ, các phương tiện được đầu tư hiện đại giúp Cô Tô ngày càng gần với đất liền hơn.
Cô Tô là huyện đảo đầu tiên trong cả nước đạt chuẩn nông thôn mới (năm 2015), hiện đang phấn đấu lên các mục tiêu cao hơn. Trong những năm qua, địa phương tập trung phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại, trong đó tập trung phát triển nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản theo quy mô hàng hóa.

Phát huy tối đa lợi thế, Cô Tô tập trung thúc đẩy chế biến thủy sản, sản xuất sản phẩm đặc trưng, có thế mạnh của địa phương. Xây dựng Đề án nuôi biển để nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị, tiềm năng của Cô Tô; đồng thời tạo công ăn việc làm ổn định, bền vững cho ngư dân kết hợp với phát triển du lịch trên địa bàn. Giai đoạn 2020-2025, lũy kế sản lượng khai thác thuỷ sản trên địa bàn đạt 28.900 tấn; lũy kế sản lượng nuôi trồng đạt 1.875 tấn; lũy kế sản lượng chế biến đạt 15.350 tấn…
Đi cùng với kinh tế, văn hoá, xã hội có nhiều khởi sắc. Công tác giáo dục - đào tạo và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 100%. 100% các trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó 20% số trường học đạt chuẩn mức độ 2. Công tác an sinh xã hội, chăm lo cho người có công được quan tâm.
Chương trình giảm nghèo bền vững được thực hiện hiệu quả; các nguồn lực xã hội hóa được huy động hỗ trợ, lồng ghép hiệu quả với chương trình xây dựng nông thôn mới. Đến hết năm 2024, Cô Tô không còn hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia. Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hệ thống chính quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cải cách hành chính, chuyển đổi số được đẩy mạnh, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện.

Xây dựng đảo xanh, an toàn, hạnh phúc
Giai đoạn 2025 - 2030 tới đây, Cô Tô xác định: Kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được, đặc biệt là nắm bắt thời cơ mới, vận hội mới từ việc thực hiện chính quyền 2 cấp và tiếp tục sắp xếp bộ máy đảm bảo “Tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, đặt ra yêu cầu ngày càng cao trong tư duy quản trị địa phương gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc và phát huy tốt năng lực, tinh thần trách nhiệm cao nhất của đội ngũ cán bộ, công chức đặc khu Cô Tô. Đồng thời, có giải pháp để khắc phục các tồn tại, hạn chế thời gian qua với mục tiêu đưa điểm yếu trở thành điểm đột phá.
Cô Tô xác định phát triển nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường biển, đảo. Theo đó, phát triển du lịch, dịch vụ tổng hợp hiện đại trên cơ sở thu hút các nhà đầu tư chiến lược để hình thành các dịch vụ du lịch cao cấp, khẳng định vai trò mũi nhọn, chủ đạo, trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế của đặc khu.
Nhất quán quan điểm phát triển du lịch “giảm lượng, tăng chất” chuyên nghiệp, hiện đại, đi vào chiều sâu, hướng tới mục tiêu trở thành khu du lịch quốc gia. Thúc đẩy liên kết vùng; tăng cường quảng bá, liên kết các tour, tuyến với vịnh Bái Tử Long, Vân Đồn; tổ chức các sự kiện, lễ hội văn hóa đặc sắc gắn với đặc trưng biển đảo để Cô Tô trở thành điểm đến “Du lịch bốn mùa”.
Xây dựng hệ sinh thái du lịch đa dạng, với nhiều sản phẩm mới độc đáo chất lượng cao, đặc sắc: Nghỉ dưỡng xanh, du lịch văn hóa, du lịch trải nghiệm nghề biển, du lịch không rác thải nhựa, du lịch tái tạo... gắn với thúc đẩy du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, giáo dục truyền thống bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hỗ trợ doanh nghiệp du lịch, hộ kinh doanh đổi mới mô hình kinh doanh theo hướng sinh thái, số hóa, thân thiện với môi trường. Chú trọng khai thác toàn diện cả thị trường nội địa và quốc tế, tăng mức chi tiêu của du khách; tăng cường hợp tác, làm mới các sản phẩm du lịch đã có gắn với phát triển các chuỗi sản phẩm du lịch mới; khẳng định thương hiệu “Cô Tô - Đặc khu biển đảo xanh, an toàn, hạnh phúc”.

Cùng với du lịch biển đảo sinh thái - văn hóa - trải nghiệm, Cô Tô sẽ tập trung phát triển 2 trụ cột kinh tế biển khác là thủy sản bền vững và nuôi biển công nghệ cao, hậu cần nghề cá - dịch vụ logistics ven bờ. Ưu tiên xây dựng đồng bộ và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế biển, nhất là hạ tầng cảng biển và dịch vụ cảng biển. Tổ chức lại và khai thác hiệu quả không gian phát triển kinh tế biển bảo đảm hợp lý, khoa học, hài hòa lợi ích và giảm xung đột để tạo không gian và động lực phát triển mới gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học và sinh kế ngư dân. Xây dựng khu bảo tồn biển gắn với phát triển du lịch.
Phát triển thủy sản tương ứng với tiềm năng, thế mạnh của đặc khu Cô Tô; kết hợp khai thác thủy sản và nuôi trồng, chế biến hải sản công nghệ cao, hiệu quả, bền vững, bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Phát triển lâm nghiệp bền vững để phục vụ cho du lịch. Phát triển kinh tế dưới tán rừng, các mô hình sản xuất lâm nghiệp kết hợp với phát triển du lịch tạo sinh kế bền vững cho người dân. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xanh, tuần hoàn, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh gắn với xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu bền vững, giàu bản sắc văn hóa biển đảo.
Ý kiến ()