
Đưa KHCN đến gần hơn với người dân vùng cao
Phát triển khoa học công nghệ (KHCN) luôn gắn với yếu tố trình độ dân trí cao, vốn đầu tư lớn, hạ tầng hoàn thiện, thiết bị hiện đại… Do vậy, việc phát triển KHCN ở vùng cao, vùng sâu, vùng miền núi, giáp biên, vùng đồng bào DTTS của Quảng Ninh trước đây khá khó khăn bởi thiếu những yếu tố trên. Hiện nay, sau quá trình tỉnh đầu tư mạnh mẽ về kết cấu hạ tầng và phát triển sản xuất cho địa bàn vùng cao, vùng khó thông qua Chương trình 135, Đề án 196, Chương trình xây dựng NTM, Đề án 06… "ánh sáng" của KHCN và đổi mới sáng tạo đã đến được với người dân nơi đây, được người dân tiếp cận và phát huy, áp dụng vào đời sống sản xuất, sinh hoạt, tạo nên những kỳ vọng về sự đổi thay, bứt phá.
Đổi thay từ gốc
Bản Tài Lý Sáy và thôn Thanh Bình của xã Quảng Tân nhiều đồi núi, người dân phần lớn sống dựa vào kinh tế rừng. Câu chuyện đưa chúng tôi đến 2 thôn, bản vùng cao này là vì có những hộ dân người Dao, người Sán Chỉ vốn trước đây mặc định cả đời không ra khỏi thôn, bản, nay tiên phong trồng quế hữu cơ. Họ đã tham gia vào các dự án trồng quế hữu cơ do Trung tâm Khuyến nông tỉnh và Sở KH&CN triển khai; phối hợp với Công ty TNHH Hương gia vị Sơn Hà và Công ty CP Quế hồi Quảng Ninh để sơ chế, bảo quản, tiêu thụ quế hữu cơ.

Nhiều hộ dân tự áp dụng quy trình trồng, chăm sóc, khai thác, sơ chế và bảo quản quế theo hướng hữu cơ, tạo ra sản phẩm quế thanh và tinh dầu quế phục vụ xuất khẩu. Có những hộ dân phối hợp với nhau hình thành tổ nhóm trồng rừng quế hữu cơ, hoặc điểm đầu mối thu mua sản phẩm, tạo nên những cánh rừng quế rộng lớn, những điểm tập kết sản phẩm quế hữu cơ tập trung. Thời điểm này, bản Tài Lý Sáy và thôn Thanh Bình có 250ha quế hữu cơ, tới đây, khi những lứa quế tiếp theo đến tuổi đánh giá các tiêu chí hữu cơ thì diện tích quế hữu cơ ở 2 thôn, bản sẽ còn tăng cao hơn.
Ông Chíu Dì Sếnh (bản Tài Lý Sáy) nguyên là cán bộ xã. Khi về hưu ông Sếnh tiên phong chuyển đổi rừng quế đang canh tác của gia đình theo hướng hữu cơ. Ông chấp hành nghiêm quy trình chăm sóc cây không dùng phân, thuốc hoá học, thay vào đó là các loại thuốc bảo vệ thực vật gốc thực vật, sinh học, dùng phân bón cây là chất thải gia súc, gia cầm đã hoai ủ đúng cách, khâu làm cỏ, bắt sâu ưu tiên thực hiện thủ công. Riêng khâu cạo vỏ, sấy khô, ông Sếnh dùng thiết bị máy móc và hệ thống giàn năng lượng mặt trời để có khả năng sấy được nhiều hơi, tỷ lệ nước trong quế sau sấy đạt thấp nhất.
Ông Chíu Dì Sếnh cho biết: Phát triển quế hữu cơ, chúng tôi ý thức rất rõ tác dụng không chỉ là tạo ra sản phẩm chất lượng, từ đó nâng cao thu nhập đời sống cho bản thân, mà còn là góp phần vào bảo vệ môi trường…

Ông Tằng Tăng Vùi (thôn Thanh Bình) là một trong những người đầu tiên của xã Quảng Tân trồng quế hữu cơ; hiện ông cũng là chủ hộ thu mua, bảo quản quế hữu cơ của người dân thôn Thanh Bình. Ông Vùi cho biết: Doanh nghiệp liên kết và cả các doanh nghiệp ngoài địa phương biết ở xã Quảng Tân có quế sạch, thường liên hệ và đưa phương tiện về để thu mua số lượng lớn. Nếu người dân chỉ thu hoạch, bảo quản nhỏ lẻ, sẽ không đáp ứng yêu cầu đơn hàng, giá bán hàng cũng sẽ không được cao.
Bước chuyển về KHCN ở mô hình trồng quế hữu cơ ở bản Tài Lý Sáy và thôn Thanh Bình không chỉ là việc người dân biết sấy quế bằng máy, liên kết với nhau tạo thành nhóm để cùng khai thác được lượng lớn sản phẩm đáp ứng nhu cầu đơn hàng, mạnh dạn “bắt tay” với doanh nghiệp để sản phẩm được tiêu thụ triệt để hơn, giá cao hơn… mà quan trọng hơn đó là sự chuyển đổi về nhận thức của người dân. Từ truyền thống sang hiện đại, sự chuyển đổi về nhận thức đã dẫn dắt chuyển đổi về hành động của người dân nơi đây.
Phó trưởng Phòng Kinh tế xã Quảng Tân Hà Hưng Huy cho biết: Khi phối hợp triển khai các dự án trồng quế hữu cơ trên địa bàn xã, chúng tôi không tránh khỏi lo lắng. Bởi người dân đa số là đồng bào dân tộc Dao, Sán Chỉ, đời sống gần như chỉ quẩn quanh trong bản. Hiện nay, sau khi các dự án KHCN có vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh được thí điểm triển khai đạt kết quả tốt đã là động lực để người dân Quảng Tân thay đổi tư duy. Nhiều hộ dân sớm cử đại diện đi tham quan cơ sở sản xuất và ứng dụng quy trình sản xuất của các doanh nghiệp, tham gia các lớp tập huấn về kỹ thuật sản xuất quế hữu cơ ở địa phương.
Nhờ đổi mới tư duy và hành động, người trồng quế ở bản Tài Lý Sáy, thôn Thanh Bình đã và đang ngày càng ứng dụng KHCN, thiết bị hiện đại, quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất thực tế, phát huy dư địa kinh tế rừng, tạo đà để nâng cao sản lượng và giá trị sản phẩm, cải thiện cuộc sống, phát triển kinh tế địa phương.

Để miền ngược phát triển cùng miền xuôi
Xác định ứng dụng thành tựu KHCN vào sản xuất là một trong những giải pháp cốt lõi để nâng cao đời sống của người dân, nhất là đồng bào vùng DTTS, thời gian qua, bằng nhiều nguồn lực, tỉnh Quảng Ninh đã thúc đẩy triển khai các chương trình, đề tài, nhiệm vụ KHCN. Đặc biệt, từ khi Nghị quyết số 13-NQ/TU (ngày 28/4/2023) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 và gần đây là Nghị quyết số 57-NQ/TW (ngày 22/12/2024) của Bộ Chính trị về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được triển khai mạnh mẽ, thực sự đi vào cuộc sống, đã trở thành “cú hích” đưa KHCN đến với người dân và địa bàn vùng cao, miền núi khó khăn.
Chỉ tính từ đầu năm đến nay, Sở KH&CN, Sở Dân tộc và Tôn giáo cùng các địa phương đã và đang phối hợp triển khai thực hiện 25 nhiệm vụ KHCN liên quan đến sản xuất, chế biến, tiêu thụ, nâng cao năng suất lao động. Các nhiệm vụ KHCN được lồng ghép với chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2025 và Nghị quyết số 06-NQ/TU (ngày 15/5/2021) của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển bền vững KT-XH gắn với bảo đảm vững chắc QP-AN ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Những nhiệm vụ KHCN này làm gia tăng giá trị của các sản phẩm, làm nâng cao thu nhập cho nhân dân ở vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo trên địa bàn tỉnh… Tính đến hết năm 2024, mức thu nhập bình quân ở khu vực miền núi của Quảng Ninh đạt trên 83,79 triệu đồng/người.
Giờ đây ở khắp các xã, thôn vùng cao, vùng biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào DTTS sinh sống “ánh sáng” KHCN đã tác động đến mọi hoạt động đời sống xã hội và phát triển kinh tế trên địa bàn.

Không khó để thấy những rừng hồi ở Hoành Mô, Lục Hồn, Bình Liêu từ già cỗi trở lên xanh mướt, khoẻ mạnh, cho sản lượng hoa cao, chất lượng hoa tốt nhờ đã được thực hiện dự án KHCN về phục tráng giống. Những mô hình dưa lưới, chanh leo, cây có múi, cây cảnh sạch dịch bệnh, âm tính với thuốc trừ sâu ở Đầm Hà, Quảng Tân nhờ áp dụng công nghệ canh tác trong nhà kính, nhà lưới, công nghệ canh tác không dùng đất. Vùng chè ở Quảng Hà, Đường Hoa, Quảng Đức đã hơn 60 năm, đến nay vẫn sinh trưởng và phát triển tốt nhờ hệ thống tưới văng, tưới nhỏ giọt, vốn là công nghệ tưới hiện đại của Israel. Trà Hải Hà còn giữ được hương vị rất riêng của vùng đất này nhờ giải pháp trồng chè hữu cơ và bí quyết sao chè thủ công kết hợp với những thiết bị hiện đại mang hàm lượng KHCN cao.
Hiện nay, đàn lợn Móng Cái của người dân vùng biên, vùng biển Hải Sơn, Hải Ninh, Vĩnh Thực, Móng Cái 1, Móng Cái 2, Móng Cái 3 giữ được gen gốc bản địa quý hiếm nhờ công nghệ nuôi truyền thống kết hợp hiện đại, đặc biệt là áp dụng quy trình phòng dịch bệnh tiên tiến, tăng khả năng miễn dịch. Các địa phương Tiên Yên, Đông Ngũ, Hải Lạng, Hải Ninh, Vĩnh Thực, Móng Cái 1 cũng nổi tiếng với những mô hình nuôi tôm trên cạn, nuôi tôm bằng hệ thống ao lắp ghép, nuôi tôm trong nhà, nuôi tôm 2-3 giai đoạn.
Còn ở Lương Minh, Kỳ Thượng, Ba Chẽ, người dân nơi đây phát triển kinh tế rừng theo hướng chuyển từ trồng cây gỗ nhỏ sang trồng cây gỗ lớn, chuyển từ giống cây rừng ngắn ngày sang cây bản địa, chuyển từ trồng rừng để làm nguyên liệu băm dăm sang trồng rừng lấy gỗ, cung ứng cho những hoạt động chế biến lâm sản hiện đại. Vùng cao Kỳ Thượng còn có những mô hình trồng, khai thác trà hoa vàng tại vườn và sấy bằng công nghệ sấy thăng hoa, góp phần đưa trà hoa vàng trở thành sản phẩm OCOP 5 sao quốc gia, là một trong những sản phẩm OCOP chủ lực của Quảng Ninh…

Có thể thấy những dự án sản xuất giàu hàm lượng KHCN, giàu chất xám ở những địa bàn vùng cao của Quảng Ninh do đồng bào DTTS làm chủ đã và đang tạo sự năng động, phát triển, đổi mới cho khu vực miền núi. Qua đó tạo nên những hộ gia đình có thu nhập cao, những triệu phú, tỷ phú người DTTS, tạo nên những thế hệ người dân sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng miền núi, giáp biên, vùng đồng bào DTTS có tư duy cởi mở, sẵn sàng tiếp cận và thích ứng với cái mới, góp phần đưa miền ngược tiến lên hiện đại cùng miền xuôi như mục tiêu tỉnh đề ra.
Ý kiến ()