20
18
/
1101542
Đòn bẩy đưa vùng khó bứt phá, hiện thực hóa khát vọng phát triển
longform
Đòn bẩy đưa vùng khó bứt phá, hiện thực hóa khát vọng phát triển

Cover

Ngày 17/5/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TU “về phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030”. 

Đây là nghị quyết đầu tiên và chiến lược, thể hiện sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị tỉnh trong việc xây dựng, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo một cách bền vững trên mọi lĩnh vực, nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho người dân; từng bước hiện thực hóa khâu đột phá về phát triển văn hóa giàu bản sắc Quảng Ninh gắn với thu hẹp nhanh khoảng cách giàu nghèo và chênh lệch vùng miền trong tỉnh mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đã quyết nghị. Đồng thời, cụ thể hóa 3 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025.

Ảnh với chú thích
Công trình nâng cấp chống ngập lụt tuyến đường từ ĐT330-ĐT342 phục vụ đời sống dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực huyện Ba Chẽ trước kia.

Trong 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, Quảng Ninh không chỉ dựa vào ngân sách nhà nước mà còn huy động tối đa nguồn lực xã hội hóa, sự đóng góp của doanh nghiệp và cộng đồng. Đặc biệt, tỉnh đã khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường, ý chí vươn lên của chính người dân vùng khó khăn. Trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh đã huy động nguồn vốn đầu tư rất lớn, hơn 120.000 tỷ đồng (khoảng 5 tỷ USD), đầu tư cho các xã, thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Trong đó, vốn ngân sách trực tiếp chỉ 4.200 tỷ đồng (chiếm khoảng 3,5% tổng nguồn các loại), còn lại là nguồn vốn huy động từ nhân dân, các tập thể, cá nhân. Nguồn vốn này được bố trí có trọng tâm, trọng điểm sát các mục tiêu đã đề ra, việc phân bổ kế hoạch vốn được rà soát kỹ lưỡng, kết quả thực hiện cơ bản bảo đảm yêu cầu, tiến độ, phát huy tốt hiệu quả.

Qua 5 năm triển khai thực hiện, bằng các chủ trương, cơ chế, chính sách cụ thể, riêng có của tỉnh đã tạo đột phá, thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, văn hóa..., là cơ sở, nền tảng và điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Trong đó, riêng nguồn vốn đầu tư công ngân sách tỉnh hỗ trợ trực tiếp các địa phương thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đã đầu tư 785 công trình, dự án (301 dự án giao thông, 125 dự án thủy lợi, 56 dự án nước sinh hoạt, 64 dự án giáo dục, 2 dự án y tế, 138 dự án văn hóa, 25 dự án điện, 2 dự án nhà công vụ, 72 dự án chỉnh trang khu dân cư). Tỉnh cũng ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vùng khó khăn, gắn kết với các trung tâm kinh tế, trung tâm đô thị, vùng động lực, khu kinh tế, khu công nghiệp nhằm tăng cường mở rộng khai thác lợi thế kinh tế, thúc đẩy vùng phát triển nhanh bền vững các khu vực. Điển hình là hạ tầng kết nối động lực giữa TP Hạ Long với huyện Ba Chẽ (trước đây), cùng nhiều công trình giao thông động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, miền núi, biên giới; 3 cửa khẩu (Hoành Mô, Bắc Phong Sinh, Móng Cái)…

Ảnh với chú thích
Dự án đường tỉnh 342 nối tỉnh Quảng Ninh và tỉnh Lạng Sơn được hoàn thành thi công vào giữa năm 2024 tạo điều kiện thúc đẩy phát triển KTXH vùng DTTS trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Đỗ Phương

Giai đoạn 2021-2024, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh đã phát triển đúng định hướng, trong đó tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, ngành dịch vụ và thuế sản phẩm trong cơ cấu kinh tế GRDP của tỉnh có xu hướng tăng dần, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trong cơ cấu kinh tế GRDP của tỉnh có xu hướng giảm dần từ 5,7% năm 2021 còn 4,5% trong năm 2024 theo đúng định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; dự kiến đến hết năm 2025 đạt kế hoạch nằm trong khoảng 4-5%.

Bên cạnh đó, phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập ổn định cho lao động, nhất là lao động trẻ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Giai đoạn 2021-2025, tỉnh đã tạo chuyển biến căn bản, rõ rệt về hạ tầng phục vụ phát triển giáo dục vùng nông thôn, miền núi (quan tâm, ưu tiên, tập trung đầu tư đồng bộ cơ sở vật chất các cấp học phổ thông, phát triển các trường phổ thông theo tiêu chí chất lượng cao), đồng thời với việc nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý, giáo viên, chất lượng dạy và học; đầu tư phát triển giáo dục dân tộc thiểu số; chủ động, kịp thời, tiên phong ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù của tỉnh hỗ trợ giáo viên học sinh vùng miền núi, biên giới, hải đảo. Kết nối doanh nghiệp (nhất là ngành Than, doanh nghiệp trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh) với lao động các địa phương, tạo sự gắn kết giữa đô thị và nông thôn, tạo ra việc làm ổn định, cùng với các giải pháp, cơ chế, chính sách cụ thể của tỉnh về hỗ trợ, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh (nhất là thông qua nguồn vốn tín dụng) đã tạo đột phá trong việc nâng cao thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo (tính đến hết năm 2024 đạt 83,79 triệu đồng/người/năm, tăng 40,09 triệu đồng/người/năm, gấp 1,9 lần so với năm 2020). Đến nay, 100% thôn, bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhà văn hóa. Các cơ chế, chính sách, nhất là về y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, giải quyết việc làm, tín dụng chính sách xã hội... được xây dựng, triển khai đảm bảo kịp thời.

Ảnh với chú thích
Không gian trưng bày các hiện vật của dân tộc Sán Dìu tại Nhà văn hóa dân tộc Sán Dìu (đặc khu Vân Đồn). Ảnh: Mạnh Trường 

Nghị quyết số 06-NQ/TU cũng đi sâu vào việc phát triển sinh kế bền vững cho người dân, dựa trên tiềm năng và lợi thế của từng địa phương. Thay vì áp đặt mô hình, tỉnh khuyến khích các dự án phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, du lịch cộng đồng phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu và văn hóa từng vùng. Điều này giúp người dân nâng cao thu nhập một cách bền vững và hiệu quả. Các địa phương cũng đã bước đầu biến lợi thế về điều kiện tự nhiên, cảnh quan thiên nhiên, môi trường tự nhiên, văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số thành các sản phẩm du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng theo hướng bền vững, lấy người dân làm trung tâm. Trong đó một số địa phương đã đầu tư phát triển mô hình du lịch cộng đồng, bước đầu tạo ra một số sản phẩm du lịch đặc sắc, độc đáo, được du khách đón nhận và đem lại hiệu quả tích cực. Điểm nổi bật là Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 30/10/2023 về “xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Quảng Ninh trở thành nguồn lực nội sinh, động lực cho phát triển nhanh, bền vững”.  

Ảnh với chú thích
Tuyến đường xã Tân Bình, huyện Đầm Hà được đầu tư khang trang sạch đẹp. 

Cụ thể hóa Nghị quyết số 17-NQ/TU của Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành các kế hoạch, quyết định, phê duyệt đề án bảo tồn, khôi phục và phát huy môn thể thao dân tộc, nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống thiết chế nhà văn hóa, thể thao, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị hệ thống di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, quản lý và tổ chức lễ hội trên địa bàn tỉnh. Chỉ đạo xây dựng, khôi phục và phát triển các Làng dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch cộng đồng khu vực miền núi trên địa bàn tỉnh; triển khai thực hiện Đề án phát triển du lịch cộng đồng bền vững, Đề án phát triển du lịch bền vững, gắn với khôi phục, phát huy có hiệu quả các giá trị văn hóa bản địa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số.

Quan trọng hơn, thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, Quảng Ninh đã thành công trong việc kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh ở các khu vực miền núi, biên giới và hải đảo. Việc người dân có cuộc sống ấm no, ổn định chính là nền tảng vững chắc nhất cho an ninh trật tự, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Thành công này là một minh chứng sống động về hiệu quả của các chính sách phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, góp phần vào sự phát triển bền vững và thịnh vượng chung của đất nước.

BẢO BÌNH

Đồ họa: ĐỖ QUANG

Ý kiến ()

0 / 500 ký tự
Guest
Đang tải dữ liệu