
"Thương hiệu" từ dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
TS. Nguyễn Thị Quế Hương, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, cho rằng, các tôn giáo cũng chính là một trong những kho tàng giúp bảo lưu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi của dân tộc, đặc biệt, tạo ra những “thương hiệu” cho từng vùng miền. Và theo cách hiểu này thì Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng đã tạo ra thương hiệu cho Quảng Ninh.
Du nhập vào Việt Nam, giao thoa, tiếp biến với văn hóa tín ngưỡng của người Việt xưa, Phật giáo Việt Nam phát triển rực rỡ vào thời Lý - Trần, đặc biệt là sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm ở Yên Tử. Ngày nay, các di tích còn lại của Phật giáo Trúc Lâm được phân bố trên một địa bàn rộng lớn, nhưng tập trung nhất là ở Quảng Ninh, Bắc Ninh và Hải Phòng. Trên địa bàn Quảng Ninh, đó là hệ thống di tích thuộc khu vực Yên Tử với hàng chục điểm di tích lớn, nhỏ; các di tích nhà Trần ở Đông Triều, trong đó có Quỳnh Lâm, Ngọa Vân, Hồ Thiên, các lăng mộ vua Trần...
Cũng theo TS. Nguyễn Thị Quế Hương, tuy chưa có thống kê một cách đầy đủ nhất số lượng chùa, am, thiền viện của Phật giáo Trúc Lâm trước đây, nhưng những gì còn lại cũng hết sức phong phú như: Chùa Hoa Yên, chùa Bảo Sái, chùa Một Mái, chùa Vân Tiêu, chùa Đồng, Tử Tiêu Am, chùa Long Động, chùa Giải Oan, chùa Lân, chùa Cầm Thực, chùa Hồ Thiên, am Ngọa Vân, am Dược, am Thung, am Thiền Định, am Lò Rèn, chùa Quỳnh Lâm, chùa Bắc Mã. Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử thông qua hàng loạt di tích, danh lam thắng cảnh với sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên với các công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị đặc biệt. Hệ thống chùa, am, tháp, bia, tượng… ở Yên Tử là những hiện vật lịch sử quý hiếm, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp tu hành của các thế hệ thiền sư.
Liên quan đến Thiền phái Trúc Lâm và văn hoá nhà Trần, tại Quảng Ninh có hệ thống di sản văn hoá phi vật thể phong phú, trước tiên là các lễ hội. Đó là lễ hội đền An Sinh, lễ hội các làng ven dãy Yên Tử, hội xuân Yên Tử, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội chùa Long Tiên, lễ hội đền Cửa Ông, lễ hội chùa Cái Bầu. Đặc biệt, hội xuân Yên Tử kéo dài 3 tháng mùa xuân, tuy diễn ra vào thời gian cả nước có nhiều lễ hội khác nhau nhưng lượng du khách đổ về vẫn rất đông. Theo GS. Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, những lễ hội này không dừng lại ở một điểm mà trải rộng trên một không gian rộng lớn, có sự kết nối theo chuỗi thành không gian văn hoá tâm linh hấp dẫn.

Về di sản tư liệu, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để lại cho hậu thế những bản kinh văn và các bản sách quý giá. Các bản kinh, sách hay mộc bản còn lưu giữ tại một số ngôi chùa như các tác phẩm khắc trên mộc bản. Đó còn là những tập thơ nói về sự ra đời và truyền bá Phật giáo Trúc Lâm, như: “Thiền tông bản hạnh” hay “Yên Tử nhật trình”. Đặc biệt, trong các kinh, sách đều được sử dụng chữ Nôm thể hiện tinh thần dân tộc của Việt Nam.
Về tín ngưỡng, theo PGS.TS. Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hoá quốc gia, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử tôn vinh đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” thờ cúng tổ tiên mà đại diện là tôn thờ các vị hoàng đế đã khuất núi.

Tất cả những di sản quý giá đó đang đồng hành với sự phát triển của lịch sử dân tộc và sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Việc bảo vệ và gìn giữ giá trị văn hóa gắn với Phật giáo, tỉnh Quảng Ninh đã có những cơ chế, chính sách cụ thể nhằm huy động nguồn lực trong nhân dân và trong các tôn giáo vào việc trùng tu, tôn tạo di tích.
Phát huy giá trị di sản văn hoá Phật giáo, tỉnh nhà đã đặc biệt chú trọng dành nhiều nguồn lực đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người, trong đó có Quần thể di tích - danh thắng Yên Tử, Quần thể di sản nhà Trần... Đặc biệt, Quảng Ninh đã chủ trì, phối hợp với các địa phương, bộ, ngành và các cơ quan liên quan xây dựng hồ sơ khoa học Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc đệ trình UNESCO và đã được công nhận là Di sản thế giới. Những giá trị đó góp phần tạo nên thương hiệu của Quảng Ninh khi nhắc đến Yên Tử nói riêng, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc nói chung.
Ý kiến ()