
Theo dấu tích hai vị tổ Thiền phái Trúc Lâm
Nếu Thiền sư Pháp Loa là vị tổ thứ hai của Trúc Lâm, từng trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm - một trung tâm đào tạo Phật giáo lớn đã có công tu tạo và mở rộng chùa Thanh Mai và chùa Côn Sơn, thì Thiền sư Huyền Quang - vị tổ thứ ba cũng đã có sự nghiệp gắn với chùa Côn Sơn...
Dấu tích Pháp Loa ở chùa Thanh Mai
Thiền sư Pháp Loa (1284-330) tên tục là Đồng Kiên Cương sinh ngày 7 tháng 5 năm Thiệu Bảo thứ 4 (1284), quê ở làng Cửu La, huyện Chí Linh, lộ Lạng Giang (nay là phường Ái Quốc, thành phố Hải Phòng) là vị tổ thứ hai của Trúc Lâm. Ngài theo học và kế thừa vị tổ thứ nhất là Điều Ngự Trần Nhân Tông và làm thị giả. Ngài có công biên soạn sách Phật để giảng dạy trong Thiền phái, như Đại Tạng Kinh, giảng bộ Truyền Đăng Lục và nhiều kinh sách khác. Pháp Loa từng trụ trì ở chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Ninh) là một trung tâm đào tạo Phật giáo lớn, đã đào tạo khoảng hơn 1.000 vị tăng. Pháp Loa là vị thiền sư đã có công tu tạo và mở rộng chùa Thanh Mai và chùa Côn Sơn vào năm 1329 dưới thời Trần.
Chùa Thanh Mai hiện thuộc xã Nguyễn Trãi (Hải Phòng). Sau khi Pháp Loa viên tịch ngày 3/3 âm lịch năm 1330 tại chùa Quỳnh Lâm, thi hài ngài đã được an táng tại chùa Thanh Mai. Ngôi tháp chứa xá lị của Pháp Loa có tên là Viên Thông Bảo tháp. Vua Trần Anh Tông đã sắc phong cho ngài là Đại Tuệ Tịnh Trí Đức thiền sư.

Chùa Thanh Mai nằm trên sườn núi Tam Ban (có nghĩa là 3 cấp núi liền kề thuộc cánh cung Đông Triều), cao khoảng 200m. Chùa được xây dựng ở cấp núi thứ hai, rộng và bằng phẳng nhất. Chùa đã bị hoang phế và lãng quên sau nhiều năm, đến năm 1980 mới được phục dựng và bảo tồn. Năm 1992, chùa Thanh Mai được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia nhưng quy mô nhỏ hẹp, lại ở nơi heo hút, đường sá đi lại khó khăn nên chùa vẫn bị chìm trong quên lãng. Cho tới năm 1994, chùa Thanh Mai mới được trùng tu lớn, được đầu tư xây dựng đường lên chùa.
Lễ hội chùa Thanh Mai được tổ chức vào đúng ngày hoá của thiền sư Pháp Loa (3/3 âm lịch). Trong lễ hội có nhiều nghi lễ như giảng kinh, chạy đàn, lễ tắm tượng…
Ngày nay, chùa Thanh Mai đã được các Phật tử đóng góp để trùng tu, đã dựng được 10 gian nhà thờ Tổ, có kiến trúc hình chữ nhị, khu nhà bếp, công trình phụ… Nhà nước cũng đầu tư xây dựng 10 gian chính điện với kiến trúc hình chữ “Đinh”. Tiền đường xây theo kiểu chồng diêm, tam quan, nhà bia, nhà khách, nhà tăng.
Giá trị văn hoá vật thể của chùa Thanh Mai còn lưu lại là những chân tảng, bức tường gạch và 9 nền chùa cũ. Đặc biệt còn có ngôi tháp cổ Viên Thông Bảo tháp, xây năm 1334, có cả bia đá. Ngoài ra, còn có tháp Phổ Quang, Linh Quang…
Tấm bia thời Trần được công nhận là Bảo vật quốc gia là bia Thanh Mai Viên Thông tháp bi và còn có 2 bia thời Lê, 1 bia thời Mạc. Trong đó, bia Thanh Mai Viên Thông tháp bi được dựng vào năm 1362, có giá trị lớn vì là tấm bia có niên đại tuyệt đối, phản ánh tình hình Phật giáo và xã hội đương thời. Bia cao 1,31m rộng 82cm được đặt trên tượng rùa đá có khắc chân 5 móng. Trang trí trên trán bia có hình đôi rồng thời Trần có mào, hoa văn dây cuốn. Chân bia có hoa văn sóng nước trang trí.
Nội dung bia ghi lại vào năm 1324, các đệ tử của Thiền sư Pháp Loa cho xây nhiều tháp, chùa ở khắp nơi trong nước Đại Việt. Văn bia còn chép Thiền phái Trúc Lâm tạo được 1.300 tượng Phật, dựng được 2 ngôi chùa lớn cùng 5 toà tháp, xây được 200 tăng xá, có 15.000 tăng ni và in được Đại Tạng kinh. Năm 1328, Pháp Loa còn cho đúc một pho tượng Di Lặc, đặt trên bảo toạ và dát vàng. Bia còn nói đến chùa Vĩnh Nghiêm là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, nơi in khắc kinh Phật, đến việc sư Pháp Loa tổ chức đúc tượng “Quan Âm nghìn mắt nghìn tay”. Tấm bia quý giá này còn khắc một bài thơ trong “Việt Âm Thi tập” của vua Trần Minh Tông.
Chùa Côn Sơn cũng là nơi gắn liền với sự nghiệp của Thiền sư Pháp Loa. Chùa này còn có tên là Tư Phúc tự, Thiên Tư Phúc tự, Côn Sơn tự hoặc theo tên nôm là chùa Hun, hiện ở phường Chu Văn An (Hải Phòng). Chùa đã được Bộ Văn hóa Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa xếp hạng di tích quốc gia đợt đầu tiên năm 1962 (cùng với Vịnh Hạ Long và Khu đền thờ và lăng mộ các vua Trần ở Quảng Ninh). Đây là di tích quan trọng thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt năm 2012.
Ban đầu, Pháp Loa cho xây dựng một ngôi chùa có tên là Kỳ Lân vào năm 1304, đến năm 1329, ông đã mở rộng chùa và đặt tên mới là Côn Sơn Thiên Tư Phúc tự và giao cho Thiền sư Huyền Quang trụ trì.
Thiền sư Huyền Quang và chùa Côn Sơn
Thiền sư Huyền Quang (1254-1334), thế danh là Lý Đạo Tái (có tài liệu gọi là Lý Tái Đạo) quê ở hương Vạn Tải, lộ Bắc Giang Hạ (nay thuộc xã Nhân Thắng, tỉnh Bắc Ninh). Nổi tiếng là người học cao tài giỏi, làm quan tới năm 51 tuổi thì ngài xin từ quan để xuất gia. Huyền Quang là vị sư có sự nghiệp gắn với chùa Côn Sơn. Sau khi ngài viên tịch, vua Trần Minh Tông đã cho xây Đăng Minh bảo tháp chứa xá lị của ngài. Ngày mất của ngài (27 tháng Giêng) là ngày lễ hội xuân của chùa Côn Sơn.
Chùa Côn Sơn sau khi Huyền Quang mất, còn có nhiều danh nhân đến ở ẩn và trông nom như Nguyễn Trãi trong giai đoạn được minh oan và được khôi phục các chức tước, trong đó ông có một chức mới là “Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự” (Ông Từ giữ chùa Côn Sơn Phúc tự). Cũng cần nói về chùa Côn Sơn có những di sản và báu vật được tạo nên từ đợt trùng tu, mở rộng như 83 gian chùa, có toà Cửu phẩm liên hoa gắn 385 tượng Phật, nhà thiêu hương, tiền đường, thượng điện khang trang, tượng Phật Quan Âm bồ tát nghìn mắt nghìn tay…
Chùa Côn Sơn ngày nay nổi bật là một ngôi chùa có kiến trúc rộng, cảnh quan đẹp với kiến trúc nhiều tầng với hồ bán nguyệt, tam quan, sân trước, gác chuông, tiền đường, thiêu hương, thượng điện, tổ đường, điện Mẫu, nhà bia. Hai bên là hai dãy nhà hành lang. Chùa còn có nhiều cây đại thụ và nhiều cây thông cổ thụ. Phía sau chùa là Đăng Minh bảo tháp cao 3 tầng đặt xá lị của Thiền sư Huyền Quang.
Tại cạnh tầng một của tháp còn có bia nói về sự nghiệp của Huyền Quang, khắc vào năm 1719. Bia có minh văn cho biết Huyền Quang từng thi đỗ Trạng Nguyên trước khi đi tu, từng đi sứ Trung Quốc. Ngài hưởng thọ 80 tuổi và được triều đình Đại Việt quý mến.

Cũng cần nói thêm là Trúc Lâm tam tổ được các vua thời sau hết sức coi trọng. Điển hình là vua Lê Dụ Tông đã cho trùng tu cả ba ngôi tháp chứa xá lị của ba vị Tổ thiền phái là Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.
Trên đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng, nơi đây Thiền sư Pháp Loa đã dựng một bàn cờ và được dân dã gọi là Bàn cờ Tiên. Tại chùa còn lưu 16 văn bia, tượng Phật A Di Đà cao trên 3m, tượng Phật nghìn mắt nghìn tay…
Các nhà khảo cổ học cũng đã tham gia vào việc xác định giá trị thật sự của di sản kiến trúc văn hoá của ngôi chùa Côn Sơn để phục vụ cho việc quy hoạch và phát triển kinh tế và du lịch bền vững. Từ năm 1979 đến năm 2014, nhiều cuộc khai quật đã được tiến hành ở Côn Sơn. Đó là cuộc khai quật Đăng Minh Bảo tháp, tìm được ngôi tháp đời Trần bằng đất nung dưới chân tháp, tại khu nền nhà Thanh Hư động, khu vườn tháp và thượng điện có nền móng kiến trúc, ngói mũi hài, rồng đá, tượng đất nung thời Trần. Tại khu tam quan và đỉnh núi Kỳ Lân đã tìm được gạch, gốm, ngói thời Trần. Các khu nhà Tổ, nhà Phẩm cũng có nhiều hiện vật của thời Trần, Lê và nền móng kiến trúc liên quan đến toà Cửu phẩm liên hoa…
Căn cứ vào tư liệu khảo cổ, năm 2015, nhà nước đã phục dựng lại toà Cửu phẩm liên hoa hình bát giác 9 tầng, cao khoảng 10m. Năm 2019, chùa đã cho đúc quả chuông mới nặng 1,2 tấn cao 1,8m bên cạnh 2 quả chuông đồng có niên đại Tự Đức.
Chùa Côn Sơn còn lưu giữ được tấm bia Thanh Hư động khắc vào khoảng năm 1372-1377 là bảo vật quốc gia. Bia cao 1,65m, rộng 98cm. Trán bia có chữ “Long Khánh ngự thư” (Vua tự tay viết minh văn trên bia, Long Khánh là niên hiệu của Trần Duệ Tông). Giữa bia khắc chữ “Thanh Hư động”. Mặt sau bia có bài ký “Côn Sơn Tư Phúc tự bi minh”. Bia “Côn Sơn Tư Phúc tự bi” được làm vào năm 1607, có chiều cao 1,2m rộng 32cm, bia có hình lục giác. Trang trí trên bia là hình rồng, mây. Tấm bia này cũng được công nhận là Bảo vật quốc gia từ năm 2017. Nội dung bia ghi chép về đợt trùng tu chùa Côn Sơn năm 1607.
Đáng chú ý, bia “Côn Sơn Tư Phúc tự bi” đã là tấm bia được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc và dịch nghĩa cho các cán bộ trong đoàn về thăm chùa Côn Sơn ngày 15/2/1965.
Ý kiến ()