
Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, thu hẹp khoảng cách vùng miền – đó không chỉ là định hướng lớn trong các văn kiện của Đảng mà còn là hành động xuyên suốt, quyết liệt của tỉnh Quảng Ninh trong nhiệm kỳ 2020–2025. Với quyết tâm chính trị cao và cách làm bài bản, Quảng Ninh đã từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, mang lại cơ hội vươn lên bình đẳng cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Quảng Ninh đã xác định rõ phát triển bao trùm, thu hẹp khoảng cách vùng miền là nhiệm vụ chính trị then chốt. Cùng với đầu tư hạ tầng đồng bộ, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách chuyên sâu nhằm khai thác tiềm năng địa phương, hỗ trợ sinh kế, tạo động lực phát triển kinh tế tại các xã đặc biệt khó khăn.
Một trong những chính sách điểm nhấn là Đề án 196, triển khai từ năm 2017, với mục tiêu đưa các xã, thôn ra khỏi diện đặc biệt khó khăn. Nhờ đó, đến nay, nhiều mô hình sản xuất tại vùng cao đã hình thành và phát huy hiệu quả: từ hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, đến cơ giới hóa nông nghiệp, chế biến nông sản, giúp người dân chủ động sản xuất hàng hóa, nâng cao thu nhập.
Nhiều hợp tác xã được hỗ trợ thành lập, đáng chú ý, giai đoạn từ năm 2021 - 2023, tỉnh đã hỗ trợ thành lập 69 hợp tác xã tại vùng dân tộc thiểu số và miền núi (chiếm hơn 31% tổng số HTX mới thành lập), hoạt động trong các lĩnh vực trồng cây dược liệu, chăn nuôi, chế biến nông sản... tạo thành các chuỗi giá trị nông – lâm sản khép kín, nâng cao giá trị sản phẩm địa phương.
![]() |
Các mô hình trồng rừng gỗ lớn đều được thụ hưởng chính sách hỗ trợ của tỉnh. (Trồng rừng tại xã Kỳ Thượng). |
Tỉnh cũng ban hành Nghị quyết 337/2021/NQ-HĐND về hỗ trợ trồng rừng sản xuất gỗ lớn và cây bản địa tại TP Hạ Long và huyện Ba Chẽ. Tính đến giữa năm 2024, hơn 1.656 ha rừng trồng mới, thu hút trên 1.000 hộ dân tham gia, với tổng mức hỗ trợ hơn 34 tỷ đồng. Chính sách này không chỉ giúp người dân phát triển sinh kế mà còn góp phần phục hồi rừng, bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học.
Song song với phát triển nông - lâm nghiệp, Quảng Ninh đẩy mạnh kinh tế du lịch - dịch vụ gắn với sản xuất nông nghiệp tại vùng cao. Thông qua chương trình OCOP, tỉnh hỗ trợ các địa phương phát triển sản phẩm mang đặc trưng bản địa, từ chế biến, đóng gói, dán nhãn truy xuất nguồn gốc đến đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử. Nhờ đó, đồng bào vùng cao từng bước tiếp cận thị trường rộng lớn, gia tăng thu nhập, khẳng định giá trị văn hóa địa phương qua sản phẩm.
Đáng chú ý, tỉnh triển khai hàng loạt chương trình tín dụng ưu đãi. Đến năm 2024, tổng dư nợ tín dụng chính sách đạt hơn 5.000 tỷ đồng, tập trung vào các đối tượng nghèo, cận nghèo, người DTTS. Hàng trăm tỷ đồng đã được ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội để giúp bà con vùng cao vay vốn phát triển sản xuất, mua máy móc, con giống, chuyển đổi nghề…
![]() |
Mô hình trồng ớt Chào Mào tại xã Đông Ngũ. |
Quảng Ninh cũng chú trọng đào tạo nghề gắn với thực tiễn, như kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản, thương mại điện tử… Các lớp học không chỉ truyền dạy kỹ thuật mà còn giúp người dân làm chủ công nghệ, quản lý kinh tế hộ gia đình, hình thành tư duy sản xuất hiện đại.
Nhờ chính sách đồng bộ và cách làm linh hoạt, giai đoạn 2021-2025, ngành nông - lâm - thủy sản của tỉnh tăng trưởng trung bình ước đạt 3,62%/năm, bà con nông dân có điều kiện phát triển. Quảng Ninh cũng là một trong những địa phương hoàn thành Chương trình xây dựng nông thôn mới sớm 2 năm so với kế hoạch, ở cả ba cấp: tỉnh, huyện, xã... Trong lĩnh vực thủy sản, tỉnh chủ động chuyển từ khai thác sang nuôi trồng bền vững, thực hiện nghiêm chống khai thác IUU. Dự kiến, sản lượng thủy sản nuôi trồng giai đoạn 2021-2025 đạt 450.000 tấn, tăng 6,5%/năm, gấp 1,5 lần so với giai đoạn trước. Quảng Ninh cũng hoàn thành quy hoạch nuôi biển bền vững, xây dựng hợp tác xã nuôi biển, ban hành quy chuẩn vật liệu nổi thân thiện môi trường.
![]() |
Mô hình trồng trà hoa vàng người dân xã Kỳ Thượng. |
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, tỉnh tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết 19-NQ/TU năm 2019 về phát triển lâm nghiệp bền vững; đã trồng thêm khoảng 5.000 ha rừng cây gỗ lớn (lim, giổi, lát); tỷ lệ che phủ rừng đạt 45% (sau bão số 3 Yagi); diện tích rừng được cấp chứng chỉ FSC đạt 30.800 ha, khẳng định định hướng lâm nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn.
Nhìn lại chặng đường vừa qua, có thể khẳng định: Quảng Ninh không chỉ “đưa công cụ” mà đã “trao cơ hội” và “xây dựng năng lực” cho người dân vùng cao. Với những chính sách toàn diện, bền vững, vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo của tỉnh đang từng bước thoát khỏi “vùng trũng” phát triển, trở thành những vùng kinh tế sinh thái mới, giàu bản sắc, góp phần tích cực vào tăng trưởng chung toàn tỉnh.
Những chính sách hỗ trợ kịp thời, đúng trọng tâm của tỉnh Quảng Ninh đã tạo điều kiện để các mô hình kinh tế vùng cao không ngừng phát triển, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập, tạo sinh kế bền vững và thu hẹp dần khoảng cách giữa vùng dân tộc thiểu số, vùng núi với khu vực trung tâm tỉnh.
Từ mô hình nuôi gà Tiên Yên của anh Bế Văn Lỵ, người dân tộc Tày tại xã Tiên Yên, có thể thấy rõ hiệu quả từ việc áp dụng mô hình sản xuất theo hướng VietGAP và chính sách hỗ trợ kỹ thuật, con giống của tỉnh. “Nhờ được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội và sự đồng hành của cán bộ khuyến nông, tôi đã đầu tư chuồng trại khoa học, chăn nuôi an toàn sinh học, duy trì quy mô đàn hàng nghìn con mỗi lứa”, anh Lỵ chia sẻ. Mỗi năm thu nhập từ chăn nuôi gà của gia đình anh lên tới hàng trăm triệu đồng, đồng thời tạo việc làm thường xuyên cho 5-7 lao động tại địa phương. Anh Lỵ còn là hạt nhân xây dựng tổ hợp tác nuôi gà OCOP, lan tỏa kinh nghiệm và hỗ trợ các hộ khác nhân rộng mô hình, góp phần xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung cho địa phương.
![]() |
Mô hình nuôi gà của anh Bế Văn Lỵ, xã Tiên Yên. |
Không chỉ dừng lại ở chăn nuôi, nhiều hộ dân ở xã Kỳ Thượng như ông Nịnh Văn Trắng, người dân tộc Sán Chỉ, đã tiên phong chuyển hướng sang phát triển nông nghiệp dược liệu, tiêu biểu là cây trà hoa vàng. Ông Trắng cho biết: “Nhờ chính sách của tỉnh hỗ trợ phát triển vùng nguyên liệu và đầu tư công nghệ chế biến sâu, tôi đã mở rộng vùng trồng hơn 30ha, đầu tư dây chuyền chiết tách hiện đại theo tiêu chuẩn ISO22000. Sản phẩm không chỉ đạt OCOP 5 sao cấp quốc gia mà còn có mặt tại các thị trường cao cấp, đồng thời gắn với mô hình du lịch sinh thái - trải nghiệm nông nghiệp. Mô hình đã tạo việc làm ổn định cho hàng chục lao động, đa số là người dân tộc thiểu số địa phương”.
Những mô hình này không chỉ hiệu quả về mặt kinh tế mà còn tạo chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy sản xuất của người dân, từ sản xuất tự phát sang sản xuất theo chuỗi giá trị, có liên kết với thị trường và ứng dụng công nghệ. Đây chính là nền tảng quan trọng để các mô hình sản xuất vùng cao ngày càng chuyên nghiệp và bền vững hơn.
![]() |
Đóng gói Trà hoa vàng tại Công ty CP Kinh doanh lâm sản Đạp Thanh (xã Kỳ Thượng). |
Bên cạnh các cá nhân điển hình, nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác tại các địa phương vùng cao cũng vận hành hiệu quả nhờ chính sách hỗ trợ của tỉnh. Tính đến nay, vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh có hơn 116 sản phẩm OCOP chất lượng từ 3 sao trở lên, với hàng chục sản phẩm được đưa lên sàn thương mại điện tử, kết nối hệ thống bán lẻ hiện đại. Các sản phẩm đặc trưng như miến dong Bình Liêu, dầu sở Bình Liêu, bánh coóc mò, trà hoa vàng Ba Chẽ… không chỉ mang giá trị bản địa mà còn được bảo hộ thương hiệu, chứng nhận an toàn thực phẩm, góp phần nâng cao giá trị nông sản địa phương.
Không dừng lại ở sản xuất nông - lâm nghiệp, vùng cao Quảng Ninh còn xuất hiện nhiều mô hình phát triển du lịch - dịch vụ gắn với nông nghiệp bản địa, tiêu biểu là mô hình Am Váp Farm tại xã Kỳ Thượng. Đây là mô hình do một nhóm bạn trẻ khởi nghiệp triển khai với xây dựng không gian lưu trú, trải nghiệm nghỉ dưỡng sinh thái và tìm hiểu văn hóa người Dao.
Nhờ chính sách hỗ trợ từ tỉnh về cải tạo hạ tầng giao thông, điện lưới, cấp nước sinh hoạt, cùng các chương trình xúc tiến đầu tư du lịch vùng cao, Am Váp Farm đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài tỉnh, đặc biệt là giới trẻ yêu thích du lịch chậm và du lịch bền vững. Mỗi tháng, nơi đây đón hàng trăm lượt khách, đặc biệt vào mùa lễ hội hay các dịp cuối tuần. Mô hình tạo sinh kế ổn định cho nhiều lao động địa phương, trong đó có phụ nữ và thanh niên dân tộc Dao, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng.
![]() |
Mô hình du lịch Am Váp Farm tại xã Kỳ Thượng. |
Am Váp Farm không chỉ là điểm nhấn về kinh tế mà còn là hình mẫu chuyển đổi tư duy làm du lịch ở vùng cao, từ tự phát sang chuyên nghiệp, từ phục vụ ngắn hạn sang khai thác giá trị dài hạn. Việc kết hợp giữa bảo tồn thiên nhiên, khai thác dược liệu, trải nghiệm bản địa và thương mại sản phẩm OCOP tại đây đang được tỉnh định hướng nhân rộng, góp phần đưa Kỳ Thượng trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế xanh và du lịch cộng đồng cuả Quảng Ninh.
Nhờ sự hỗ trợ toàn diện từ cơ sở hạ tầng, vốn vay, đào tạo nghề, xúc tiến thương mại đến kỹ thuật canh tác, các mô hình phát triển sản xuất ở vùng cao Quảng Ninh đã thực sự được người dân triển khai hiệu quả. Năm 2020, thu nhập bình quân vùng DTTS Quảng Ninh chỉ khoảng 32,6 triệu đồng/năm, đến 2023 đã tăng lên gần 73 triệu đồng/năm (tăng 1,7 lần), đến đầu 2025 đạt 83,8 triệu đồng/năm (xấp xỉ 6.983.000 đồng/tháng). Sự tăng trưởng rõ nét này cho thấy hiệu quả của các chính sách liên tục trong nhiệm kỳ 2020-2025, khẳng định hướng đúng đắn cho vùng cao, miền núi, giúp ngày càng thu hẹp khoảng cách so với vùng thấp và đạt các mục tiêu phát triển bền vững.
Các mô hình sản xuất hiệu quả đã góp phần giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo. Từ năm 2021 đến nay, Quảng Ninh đã giảm được trên 1.000 hộ nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, đưa tỷ lệ hộ nghèo tại khu vực này xuống còn 0,43%. Nhiều hộ không chỉ thoát nghèo bền vững mà còn từng bước vươn lên làm giàu chính đáng. Bên cạnh đó, sự hình thành các chuỗi sản xuất - tiêu dùng - du lịch từ mô hình OCOP còn giúp thu hẹp khoảng cách về thu nhập và chất lượng sống giữa người dân vùng cao với khu vực trung tâm.
![]() |
Miến dong Bình Liêu là một trong những sản phẩm Ocop của người dân vùng cao. |
Điểm đáng ghi nhận là trong quá trình phát triển, các mô hình đều gắn với việc bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc, khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, bảo vệ môi trường, hướng đến mục tiêu phát triển xanh và bền vững. Từ trồng cây bản địa, khôi phục lễ hội truyền thống đến phát triển du lịch cộng đồng, người dân các dân tộc thiểu số đã dần trở thành chủ thể của quá trình phát triển.
Nhìn chung, từ các mô hình điển hình đã triển khai thành công, có thể khẳng định: Chính sách phát triển sản xuất của tỉnh Quảng Ninh không chỉ tạo ra những kết quả tức thời, mà còn thiết lập nền tảng phát triển dài hạn, thúc đẩy vùng cao vươn lên mạnh mẽ, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu của nhiệm kỳ 2020 - 2025: phát triển đồng đều, bền vững, công bằng và không ai bị bỏ lại phía sau.
Thành công trong việc triển khai các giải pháp phát triển sản xuất, giảm chênh lệch vùng miền nhiệm kỳ 2020-2025 là minh chứng rõ nét cho tư duy lãnh đạo đổi mới, thực tiễn và nhân văn của tỉnh Quảng Ninh. Không dừng lại ở việc “lo cơm ăn, áo mặc” cho đồng bào vùng cao, tỉnh đã và đang kiến tạo một nền tảng phát triển bền vững, hiện đại và công bằng, nơi mọi người dân - dù ở trung tâm hay vùng biên viễn đều có cơ hội vươn lên bằng chính nội lực và sự hỗ trợ kịp thời từ Nhà nước. Đây chính là tiền đề vững chắc để Quảng Ninh tiếp tục phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, đưa các vùng khó vươn lên ngang tầm phát triển, góp phần xây dựng một Quảng Ninh “giàu đẹp, văn minh, hiện đại”, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Đồ họa: Hùng Sơn
Ý kiến ()