
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Cân đối vốn cho các mục tiêu tăng trưởng cao
Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, chúng ta dự kiến triển khai rất nhiều công trình có nguồn vốn đầu tư rất lớn, đòi hỏi bộ chức năng cần có sự tính toán, chỉ rõ nguồn vốn huy động từ đâu.
Sáng 19/6, trong khuôn khổ phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 9, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng đã tham gia giải trình một số nội dung liên quan đến các động lực tăng trưởng, giải pháp bảo đảm vừa tăng trưởng cao, vừa bền vững.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Theo Thống đốc, là cơ quan điều hành một trong số các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước thấy rằng, đất nước ta đã trải qua 40 năm đổi mới, nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển còn có những tồn tại, hạn chế. Bởi vậy, việc đánh giá, rà soát các động lực tăng trưởng kinh tế để làm mới là rất cần thiết và đây cũng là yêu cầu của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội.
“Phân tích từ góc độ đầu tư cho thấy tăng trưởng của nền kinh tế chúng ta dựa vào vốn rất lớn. Tuy nhiên, hiệu quả chưa cao, phản ánh qua chỉ số ICOR của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới và khu vực," bà Hồng nói; cho rằng điều này đặt ra yêu cầu phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết chúng ta thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều, đặc biệt là thu hút vốn FDI, nhưng chưa tận dụng được nhiều lợi thế về nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản trị và chưa có sự kết nối của khu vực này với khu vực trong nước. Bởi vậy, cần có sự thay đổi và phải làm mới trong chiến lược thu hút vốn FDI trong giai đoạn tới theo hướng chuyển giao vốn, công nghệ, quản trị và gắn với nền kinh tế trong nước nhiều hơn.
Bộ trưởng Bộ Tài chính đã khẳng định muốn tăng trưởng kinh tế cao, phải dựa vào nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước cũng đồng tình với ý kiến này.

"Vốn nước ngoài có thể đa dạng, như thu hút vốn FDI, đầu tư gián tiếp, vay nợ nước ngoài, và với chỉ tiêu nợ nước ngoài, nợ công hiện nay, chúng ta có dư địa để mở rộng thu hút vốn nước ngoài," bà Hồng diễn giải, đồng thời nêu phát biểu của Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Văn Thắng là chúng ta có thể bố trí đầy đủ nguồn vốn và đảm bảo an toàn các chỉ tiêu nợ công, nợ nước ngoài.
Từ kinh nghiệm điều hành kinh tế vĩ mô, bà Hồng cho rằng vốn trong nước phụ thuộc rất lớn vào vốn tín dụng ngân hàng. Nếu tiếp tục dựa vào nguồn vốn ngân hàng thì sẽ tiềm ẩn rủi ro của hệ thống và có thể gây hệ lụy cho nền kinh tế. Bởi vậy, chúng ta khó có thể vừa tăng trưởng cao, lại vừa đi đôi với bền vững. Đây là vấn đề mà các bộ, ngành điều hành kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tới cần hết sức lưu ý khi cân đối các nguồn vốn cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao.
Cũng theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, từ nay tới năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, chúng ta đang dự kiến triển khai rất nhiều công trình có nguồn vốn đầu tư rất lớn (đường cao tốc, đường sắt tốc độ cao, Quy hoạch Điện VIII…), đòi hỏi bộ chức năng cần có sự tính toán, chỉ rõ nguồn vốn huy động từ đâu, khả năng vay và huy động được như thế nào, thời gian về phân kỳ, về dự phòng các nguồn vốn… để đảm bảo dự án khởi công thì thu xếp được vốn và không bị động, triển khai các dự án được nhưng không tạo áp lực lớn đến rủi ro vĩ mô và đạt được tăng tăng trưởng cao, bền vững theo đúng tinh thần các nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quốc hội.
Khai thác động lực từ tiêu dùng
Từ góc độ tiêu dùng và xuất khẩu, bà cho hay, chúng ta tăng trưởng dựa nhiều vào xuất khẩu. Do có độ mở cửa lớn, thời gian vừa qua nền kinh tế của chúng ta chịu tác động rất lớn, các doanh nghiệp dựa vào xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Những diễn biến này sẽ chịu tác động bởi những thay đổi về động thái kinh tế vĩ mô của các nước trên thế giới và ảnh hưởng đến xuất khẩu. Vì vậy, cần phải khai thác động lực từ tiêu dùng và khai thác nhu cầu nội địa với lợi thế của đất nước trên 100 triệu dân.
Ngoài làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống như đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 57 để làm mới động lực tăng trưởng. Bà nhìn nhận rằng có đột phá về công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thì mới có thể tăng năng suất và tăng trưởng 2 con số. Ngoài ra, những vấn đề cản trở cho tăng trưởng dài hạn cũng cần hết sức quan tâm, như biến đổi khí hậu, nguy cơ già hóa dân số...
Nói về vai trò của ngành ngân hàng trong việc thúc đẩy các động lực tăng trưởng kinh tế, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, huy động vốn nhàn rỗi để cho vay, từ đó kích hoạt, dẫn dắt và lan tỏa tới các động lực tăng trưởng, trong nhiệm kỳ này, tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng khoảng 14-15%. Đây cũng là con số tăng trưởng tín dụng cao so với nhiều nước trên thế giới và khu vực.
Dư nợ tín dụng/GDP đến cuối năm 2024 ở mức 134% cho thấy tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế. Tín dụng vừa tăng đầu tư để sản xuất, vừa tiêu dùng, vừa thúc đẩy tiêu dùng, vừa hỗ trợ xuất khẩu. Năm 2025, khi chúng ta chuyển hướng tăng tốc, bứt phá để đạt được tăng trưởng từ 8% trở lên, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% và có thể điều chỉnh phù hợp nếu lạm phát vẫn đang trong tầm kiểm soát.
Đa dạng hóa các dịch vụ tiện ích
Với vai trò là hệ thống cung cấp dịch vụ thanh toán và cung cấp dịch vụ tài chính ngân hàng, hệ thống ngân hàng đã và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đa dạng hóa các dịch vụ tiện ích để phục vụ doanh nghiệp và người dân. Ngành ngân hàng là một trong những ngành tiên phong trong việc ứng dụng và chuyển đổi số, qua đó giúp doanh nghiệp và người dân tiết kiệm được thời gian khi thực hiện các giao dịch, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Liên quan đến việc điều hành chính sách tiền tệ, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng chia sẻ Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục bám sát diễn biến để có giải pháp, công cụ điều hành linh hoạt, hợp lý, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

“Đây là một điểm rất căn cốt. Bởi vì nếu như môi trường kinh tế vĩ mô, tiền tệ, ngoại hối biến động như đã từng xảy ra trước đây thì doanh nghiệp khó có thể phát triển," người đứng đầu ngành ngân hàng nhận định.
Theo bà Hồng, ngoài những cố gắng, nỗ lực của ngành ngân hàng, của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính tiền tệ, sự phối hợp giữa các chính sách kinh tế vĩ mô là đặc biệt quan trọng, để hài hòa điều phối và vì mục tiêu chung của quốc gia, vừa thực hiện được mục tiêu tăng trưởng cao đi đôi với ổn định kinh tế vĩ mô.
Giải đáp ý kiến của đại biểu về việc triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khi vay vốn để thực hiện các dự án xanh tuần hoàn và áp dụng khung tiêu chuẩn ESG theo yêu cầu của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng thông tin hiện nay, Bộ Tài chính đang xây dựng kênh cho vay từ quỹ.
Trong trường hợp vay từ các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính có hướng dẫn rõ để khắc phục những bất cập của gói hỗ trợ lãi suất 2% trong chương trình phục hồi nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản gửi Bộ Tài chính để cân nhắc lồng ghép vào chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng theo đối tượng của Nghị quyết 68.
Phát biểu sau đó, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn yêu cầu Ngân hàng Nhà nước sớm có kế hoạch thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ lãi suất 2%, đây là chính sách doanh nghiệp rất quan tâm./.
Ý kiến ()