
“Đoàn tàu không số” huyền thoại
Đường Hồ Chí Minh trên biển là một sáng tạo đặc sắc của đường lối cách mạng, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; hiện thân của khát vọng độc lập, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trên con đường này, những chuyến tàu không số đã vận chuyển hàng trăm ngàn tấn vũ khí từ Bắc chi viện cho chiến trường miền Nam, lập nên kỳ tích như một huyền thoại.
Táo bạo và tài trí
Sau năm 1954, với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, các thế lực cầm quyền của đế quốc Mỹ và tay sai đã ngang nhiên xóa bỏ Hiệp định Genève, đưa quân xâm lược, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, làm bàn đạp tấn công miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã xác định, con đường giải phóng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, chủ trương, nhanh chóng tổ chức chi viện sức người, sức của, vũ khí từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho chiến trường miền Nam. Theo đó, ngày 23/10/1961, Bộ tổng Tư lệnh ra quyết định thành lập Đoàn 759 vận tải thủy gồm 38 cán bộ, chiến sĩ, có nhiệm vụ mua sắm phương tiện, vận chuyển tiếp tế cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.

Rút kinh nghiệm các chuyến vận chuyển đường biển từ Bắc vào Nam chưa thành công từ trước đó, giữa tháng 8/1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết “Mở đường vận chuyển chiến lược trên biển”. Sau khi nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Phòng) và bổ sung cán bộ, đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí đã rời bến Đồ Sơn (thuộc địa phận Hải Phòng) lên đường đi Cà Mau.
Để đảm bảo bí mật cho tuyến đường vận tải đặc biệt, những chiếc tàu của Đoàn 759 phải cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển, tên gọi “Đoàn tàu không số” được ra đời. Với cách làm táo bạo và tài trí như thế, hàng tấn vũ khí từ hậu phương miền Bắc đã được chiến trường miền Nam tiếp nhận an toàn. Đó là một thắng lợi lớn, góp phần củng cố niềm tin và quyết tâm của quân dân miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Không chỉ riêng Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh thời điểm đó cũng là nơi xuất phát của những con tàu không số. Những hòn đảo đá vôi sừng sững, nằm rải rác trong lòng Vịnh Hạ Long với hàng trăm hang đá lớn nhỏ như hang Đầu Gỗ, hang Bồ Nâu, hang Sửng Sốt... trở thành địa điểm hoàn hảo để thiết lập những kho tàng bí mật cất giấu vũ khí, trước khi được đưa lên những con tàu không số để vận chuyển vào Nam. Lý do khu vực này được chọn làm nơi bốc hàng hóa, vũ khí đạn dược lên tàu, là vì lúc đó phía Hải Phòng bị địch thường xuyên phong tỏa bằng thủy lôi, máy bay, bom đạn, tàu rất khó tiếp cận. Trong khi đó, Vịnh Hạ Long có rất nhiều hang động, núi non, là điều kiện thuận lợi để quân ta vừa có thể giấu hàng tàu, vừa dễ dàng trong việc tiếp cận lấy vũ khí một cách bí mật, nhanh chóng. Ngoài ra, còn phải nhắc tới một yếu tố không kém phần trọng yếu, đó là sự tin tưởng, ủng hộ cách mạng tuyệt đối của đông đảo nhân dân Vùng mỏ. Những ngày tháng lịch sử ấy, bà con đã đồng lòng giữ bí mật và an toàn tuyệt đối cho chiến lược quân sự quan trọng này, không để lọt, lộ bất kỳ thông tin nào trong suốt nhiều năm.
Ký ức về chuyến hải trình đầu tiên
Cựu chiến binh (CCB) Vũ Đăng Khoa (hiện nay ở phố Nhà Thờ, phường Hồng Gai), nguyên là chiến sĩ tàu 67, thuộc Đoàn 125 Quân chủng Hải quân. Những kỉ niệm gần 60 năm về trước vẫn còn sống động trong ký ức người lính già.
Ông Khoa kể: Nhập ngũ tháng 9/1964 thì đến tháng 10 cùng năm được nhận lệnh đi Nam, trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển - một nhiệm vụ vô cùng khó khăn và cũng vinh dự vô cùng. Chuyến tàu mà ông và đồng đội phụ trách đã nhận hàng ở khu vực Tuần Châu, neo ở hang Trinh Nữ rồi vào Vụng Ếch trước khi xuất phát vào Nam. Sau lễ truy điệu sống cho toàn bộ thành viên trên tàu, hải trình mới được bắt đầu. Tàu nhổ neo lặng lẽ vào lúc nửa đêm để đảm bảo bí mật tuyệt đối, chạy qua bến K15 Đồ Sơn (Hải Phòng) để bảo dưỡng, kiểm tra máy móc thiết bị tổng thể lần cuối rồi mới chính thức lên đường.

Chuyến đi đặc biệt đó trên tàu có 4 sĩ quan cấp tá được bổ sung cho Bộ Chỉ huy Miền. Trên tàu chở 70 tấn vũ khí cùng 15 cán bộ, thủy thủ và 3 cán bộ tăng cường cho chiến trường miền Nam. Nhằm che mắt địch, tàu đã phải treo cờ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa; có khi còn chạy vòng sang hải phận của Trung Quốc chờ thông tin của tình báo ta gửi ra báo an toàn rồi mới vào. Nhờ ngụy trang khéo léo nên nhiều máy bay địch lượn lờ trinh sát nhưng vẫn không phát hiện ra tàu ta chở vũ khí.
Cứ thế mất khoảng chừng 20 ngày trên biển thì chuyến tàu của ông đến Bến Tre, nhưng vì chủ yếu đi trong đêm tối, lúc trời mưa dông nên tàu bị chệch hướng và mắc cạn ở Cồn Lợi. Kiên quyết giữ bí mật con đường vận chuyển vũ khí trên biển, cán bộ, chiến sĩ trên tàu được lệnh di chuyển vào bờ, chỉ còn lại 3 người là Chính trị viên Lê Hồng Phước, máy trưởng Hoàng Anh Dũng và pháo thủ Vũ Đăng Khoa giả trang làm ngư dân. Nhiều tốp máy bay, tàu chiến của địch lần lượt tìm cách tiếp cận, quan sát nhưng đều bị ta đánh lừa một cách khôn khéo nên không phát hiện được gì.

Con tàu bị mắc cạn giữa bãi cát khổng lồ, mọi người thảo luận nhiều phương án nhưng cuối cùng không có cách giải cứu. Nước thì mỗi ngày mỗi cạn, vì thế, chi bộ họp ngay trên boong tàu anh em quyết định thà mất tàu chứ nhất quyết không để lộ con đường vận chuyển trên biển. Theo đó, 100 chiến sĩ quân giải phóng được huy động từ trên bờ xuống để bốc dỡ hết toàn bộ hàng hóa, vũ khí, đạn dược... bí mật trong đêm. Thậm chí cả máy tàu đều được tháo dỡ để đưa đi cất giấu an toàn chờ ngày tái sử dụng. Vỏ tàu được ta gài bộc phá, cho nổ tung để xóa hết dấu vết, giữ cho tuyến đường biển vận chuyển Bắc - Nam được tiếp tục an toàn. Sau sự kiện này, 15 cán bộ, thủy thủ ở lại Bến Tre khoảng hai tuần rồi theo tàu ra Bắc tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. CCB Vũ Đăng Khoa cũng tiếp tục trở lại Quảng Ninh và tham gia nhiều chuyến tàu không số khác nữa, nhưng câu chuyện về chuyến hải trình đầu tiên vẫn luôn là phần ký ức sâu đậm, đặc biệt nhất.
Vượt mưa bom, bão đạn
Trong dòng hồi ức về một thời hoa lửa của CCB Vũ Văn Đức (hiện nay ở phố Giếng Đồn, phường Hồng Gai), câu chuyện khiến chúng tôi ấn tượng nhất là về lần vượt mưa bom bão đạn của giặc Mỹ trút xuống Vịnh Hạ Long vào tháng 12/1972. Theo lời kể, ông Đức khi đó chỉ vừa mới trải qua 2 tháng được biên chế về làm điện công của đoàn tàu không số, thì được vinh dự tham gia vào đội hình đi đón 4 tàu tên lửa và tiếp nhận vũ khí, trang bị trực tiếp từ 2 tàu vận tải Liên Xô trung chuyển qua Trung Quốc về Việt Nam.
Vượt nhiều khó khăn, sáng 18/12 thì tàu cập bến an toàn, 4 tàu tên lửa được đưa đi sơ tán, tránh bom ngay ở các đảo đá trong khu vực Vịnh Hạ Long. Công tác dỡ hàng, vận chuyển vật tư vũ khí lên căn cứ trên đất liền được tiến hành bí mật mà hết sức khẩn trương. Nhưng chỉ đến khoảng 21 giờ ngày 18/12, trên bầu trời bắt đầu có tiếng máy bay Mỹ bay vào bắn phá thị xã Hòn Gai, mở màn chiến dịch 12 ngày đêm chống B52 của quân dân miền Bắc.

Ông Đức xúc động kể lại: “Đêm đó, các cán bộ chiến sĩ chuyển hàng lên bờ trong tiếng bom, đạn nổ vang trời. Tôi làm nhiệm vụ canh gác có nghe tiếng đồng chí chỉ huy hét lên trên máy bộ đàm, đại ý: “Tôi đang ở cảng hải quân. Yêu cầu các trận địa cao xạ Bãi Cháy, Hà Lầm, Cột 8, Hà Tu, các anh bắn mạnh lên trời ở khu hải quân. Máy bay Mỹ trên đầu tôi đây này”. Đến sáng 19/12, công việc hoàn thành, tàu hạ cẩu, đậy nắp hầm hàng. Tàu rà phá thủy lôi đến, đưa tàu đến cập sát vào một hòn đảo đá trên là Trầu Triện. Thuyền trưởng Võ Nhân Huân ra lệnh hạ 2 xuồng cao su và các lính trẻ mới bổ sung về tàu tháng trước đến các đảo đá khác xung quanh tìm, chặt cây xanh chở về tàu ngụy trang. Các lính cũ xuống hầm hàng lấy các tấm nilon chống thủng tàu và dàn ngụy trang phủ lên dàn cẩu tàu cùng cây xanh chặt về. Đến trưa 19/12, công việc hoàn thành...”.
14 giờ ngày 19/12/1972, máy bay Mỹ gầm rú trên bầu trời Vùng mỏ. Tiếng súng cao xạ trên bờ bắt đầu khai hỏa, sau đó là tiếng bom đạn nổ vang trời toàn khu vực. Bom ném trúng 1 tàu tên lửa mới nhận. Các đồng chí chính trị viên, thuyền trưởng, thuyền phó của tàu đã khẩn trương họp hội ý nhanh tìm kế sách đối phó. Sau đó, các chiến sĩ được phổ biến quán triệt: Do tàu vận tải chậm tốc, tàu to, cơ động kém, tàu trang bị vũ khí bộ binh, không thích hợp đánh máy bay, ngay thời điểm đó tàu lại đang nằm trên bùn (cạn), tầm quan sát bị hạn chế, xung quanh toàn núi đá, địch ở trên cao nhìn ta rõ... Vì vậy, phương châm tác chiến tối ưu là phải tránh địch, chưa lộ là chưa nổ súng chiến đấu, thực hiện phương án bảo toàn lực lượng. Thuyền trưởng, Chính trị viên và các đồng chí trưởng ngành ở lại tàu. Hai đồng chí thuyền phó đưa anh em còn lại rời tàu lên đảo, làm công tác chuyển đạn và súng B41 lên bờ, vì nếu tàu trúng bom đạn máy bay Mỹ, 4 quả B41 này bị kích nổ thì tàu tan...

Loạt bom đầu máy bay Mỹ thả không trúng tàu mà rơi xuống nước, phía bên mạn trái. Ông Đức cùng đồng đội kịp tranh thủ thời cơ di chuyển vào được hang đá. Tiếp theo lại loạt bom nữa không trúng tàu, quân địch liền chuyển sang nã đạn 20 ly khiến tàu bốc cháy dữ dội. Thuyền trưởng phát lệnh cho khởi động máy điện, bật bơm cứu hỏa, lắp vòi rồng phun nước, dập lửa cho các vùng ca bin, buồng lái, nắp khoang máy, buồng thông tin. Còn các chỗ khác cứ để cho cháy tự nhiên để đánh lạc hướng địch. Cách làm này quả thực có tác dụng, máy bay Mỹ thì đã rời đi khi thấy tàu của ta bị cháy lớn, thủy thủ không nổ súng... Tối 19/12, khi nước thủy triều lên, con tàu lúc này găm đầy mảnh bom, đạn, những mảng cháy đen thui... cố gắng thoát cạn và di chuyển bí mật qua các đảo đá về phía Trung Quốc. Sau 1 tuần được sửa chữa tại công xưởng của bạn, tàu trở về Việt Nam, tiếp tục tham gia các chiến dịch vận chuyển hàng từ Bắc vào phục vụ miền Nam anh dũng chiến đấu.
Trang sử hào hùng
Nói là tàu không số, nhưng thực ra mỗi con tàu đều mang một số hiệu đăng ký tại chỉ huy sở, được thay đổi biển hiệu tàu, trang phục của cán bộ, chiến sĩ hải quân trên tàu tùy thuộc vào mỗi đợt làm nhiệm vụ. Từ 6 chiếc thuyền gỗ thô sơ cùng 38 cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt trong ngày đầu thành lập, qua 14 năm (1961-1975), lực lượng vận tải quân sự hải quân đã phát triển thành một binh đoàn vận tải chiến lược trên biển với các đội tàu sắt có trọng tải hàng trăm tấn, vươn rộng ra biển khơi, hình thành nhiều tuyến đường, mở nhiều bến bãi. Từng chiến sĩ của đoàn tàu không số năm xưa đều là những đại diện tiêu biểu cho thế hệ thanh niên sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho cách mạng, góp xương máu để giành lại hòa bình, độc lập cho dân tộc. Trước chuyến hải trình, họ sẵn sàng nhận lễ truy điệu sống, cất bước không hẹn ngày về, nêu cao quyết tâm “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến” đầy sắt đá.

Rồi khi đã ở trên con đường biển, đối diện với thủ đoạn tàn độc của kẻ thù đánh phá, lực lượng vận tải quân sự hải quân lại sáng tạo ra những phương thức vận chuyển mới, bền gan vững chí vượt qua được sự bao vây, phong tỏa, ngăn chặn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Khi địch phong tỏa gắt gao trên biển gần thì tàu di chuyển đi biển xa, vòng qua đường biển quốc tế để trở về vùng biển Việt Nam. Địch phong tỏa đường dài, tàu lại đi phân đoạn, kết hợp cải dạng, ngụy trang, nghi binh, lợi dụng địa hình và đặc điểm thời tiết vùng biển để tìm ra tuyến đi bất ngờ, khéo léo đánh địch trên suốt tuyến hành trình. Khi trời yên biển lặng thì phải giấu mình thật kín, chờ đến khi sóng to gió lớn hiểm nguy thì lại tăng tốc, đạp gió và rẽ sóng hướng về phía trước...
Có thể nói, mỗi chuyến xuôi theo đường Hồ Chí Minh trên biển đều là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù. Song với tinh thần “Vì miền Nam ruột thịt”, những người con của Quảng Ninh cũng như bao người đồng đội, sẵn sàng chiến đấu đến phút cuối cùng, bảo vệ vũ khí, đạn dược, hàng hóa, giữ bí mật về chủ trương, về con đường, con tàu, bến bãi...

Trong 14 năm ấy, Đoàn tàu không số đã hoàn thành gần 2.000 chuyến đi với tổng cộng hải trình trên 4 triệu hải lý để vận chuyển 8 vạn lượt người, trên 15 vạn tấn vũ khí, đạn dược và hàng vạn tấn hàng hóa. Từ đó, kịp thời chi viện cho chiến trường, góp phần làm nên chiến công trọn vẹn của dân tộc vào mùa xuân lịch sử 1975. Với những thành tích đạt được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đoàn tàu không số đã 2 lần được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”; 311 cán bộ, chiến sĩ được tặng Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công các hạng... góp phần xây đắp truyền thống vẻ vang “Mưu trí, dũng cảm, khắc phục khó khăn, vận tải đường biển, chi viện chiến trường, quyết chiến, quyết thắng”.
Câu chuyện về đoàn tàu không số đã trở thành bản anh hùng ca bất diệt, góp phần làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển và ghi tạc vào trang sử hào hùng của dân tộc, đất nước ta. Những cống hiến, hy sinh to lớn của các bậc cha anh đã trao cho thế hệ trẻ hôm nay niềm kiêu hãnh, tự hào về truyền thống lịch sử, càng thêm quyết tâm phát huy trí tuệ, xây dựng quê hương ngày càng thêm tươi đẹp.
Ý kiến ()