
Họ đã cất cao lời ca, tiếng hát trong khói lửa đạn bom
Không trực tiếp chiến đấu mà bằng lời ca, tiếng hát, cây đàn, những văn nghệ sĩ ngành than đã tích cực tham gia trong các đội văn nghệ xung kích biểu diễn phục vụ công nhân trên công trường, phân xưởng, các trận địa pháo trong cuộc chiến chống sự bắn phá của giặc Mỹ ở miền Bắc, phục vụ bộ đội ở chiến trường miền Nam và khu vực biên giới vùng Đông Bắc những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Họ đã góp sức mình vào chiến thắng vẻ vang của quê hương, đất nước và cũng từ đây, nhiều tiếng hát đã có cơ hội bay xa, bay cao trên các vùng miền của Tổ quốc và chinh phục bạn bè khắp năm châu.
Mang tiếng hát lên công trường, biên giới
Nghệ sĩ Vùng mỏ Nguyễn Văn Anh (sinh năm 1946), sống tại phường Cao Xanh, công nhân Nhà máy Cơ khí Hòn Gai năm xưa, thuộc Công ty Than Hòn Gai (tiền thân của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam hiện nay), là người đã tham gia trong nhiều đội văn nghệ xung kích của ngành Than, của Tỉnh Đội, Tỉnh Đoàn Quảng Ninh trong những năm giặc Mỹ bắn phá Vùng mỏ và trong chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.
Trò chuyện cùng chúng tôi về những ký ức năm xưa, ông lúc thì sôi nổi khi kể những buổi biểu diễn không nề hà khó khăn, gian khổ trong chiến tranh, về tình cảm của những người lính, lúc lại nghẹn ngào, xúc động rơi nước mắt khi nhắc về những đồng đội năm xưa giờ đã không còn…

Ông bảo, Đội văn nghệ xung kích của ngành Than gồm các hạt nhân văn nghệ nòng cốt đến từ nhiều cơ quan, xí nghiệp khác nhau, giống như một đội bán chuyên nghiệp của ngành Than. Đội thành lập vào khoảng cuối những năm 60 và được duy trì trong nhiều năm, với nhiều thành viên tiêu biểu có thể kể tới, như: Văn Tuất, Phan Cầu, Vũ Đạm, Mai Đình Tòng, Đặng Xuyên, Văn Anh, Quang Thọ, Đào Cường, Đức Nhuận, Ngọc Diện, Trọng Khang, Hồng Hải, Trần Câu, Thanh Việt, Kim Oanh, Thuý Hơn, Mai Lan, Minh Chính, Quý Sinh, Minh Nguyệt, Thanh Xuân, Văn Sông, Thanh Vân, Vân Quý… Đội thường duy trì khoảng 2 chục người, gồm cả nhạc công, các giọng ca, múa phụ hoạ và tự dàn dựng các vở kịch ngắn.
Giai đoạn Mỹ bắn phá ở Vùng mỏ, đội phục vụ các đơn vị công nhân, lên các đồi pháo, hầu như đi 3 ca, diễn khoảng một tiếng trước giờ vào ca của công nhân. Cứ sáng sớm 4 giờ biểu diễn phục vụ công nhân đi ca 1, 12 giờ trưa phục vụ cho ca 2 và 10 giờ đêm phục vụ công nhân ca 3. Chính vì vậy, đội không diễn ở hội trường mà thường diễn trực tiếp ở cửa lò, trên công trường, lòng moong Cọc Sáu, nhà sàng Cửa Ông, Hồng Gai và ở các trọng điểm hay bị giặc Mỹ bắn phá của ngành Than. Có lần, đội vừa đi diễn về thì gặp máy bay Mỹ kéo tới.
Nghệ sỹ Vùng mỏ Văn Anh nhớ lại: Hôm ấy, đội diễn ở Cửa Ông xong, đang đi bộ từ đấy về Cẩm Phả thì máy bay Mỹ bắt đầu bỏ bom ở khu vực cầu 20 và nhà sàng Cửa Ông, đội văn nghệ chúng tôi phải sơ tán hết xuống bờ sông. Lúc đấy cũng khá sợ nhưng sau đấy an toàn rồi thì chúng tôi lại tiếp tục đi bộ, đeo đàn, đồ đạc biểu diễn đi về. Những chuyện như vậy cũng trở thành thói quen của anh em văn nghệ xung kích. Sau này ra mặt trận trên biên giới cũng như vậy.

Không chỉ biểu diễn ở các đơn vị ngành Than, đội văn nghệ xung kích ngành Than còn tham gia biểu diễn phục vụ các đơn vị bộ đội dọc đường biên giới, như: Sư đoàn 369, Sư đoàn 323, Sư đoàn 395. Khi chiến tranh biên giới nổ ra, một số nghệ sĩ ngành Than lại tham gia cùng Đội văn nghệ xung kích của Tỉnh Đội, Đội văn nghệ thanh niên xung kích của Tỉnh đoàn Quảng Ninh, liên tục tham gia biểu diễn ở các mặt trận vùng biên giới, từ Đình Lập, Lạng Sơn tới Móng Cái...
Nghệ sĩ Vùng mỏ Văn Anh có mặt trong cả 2 đội này. Ông kể: Đội văn nghệ thanh niên xung kích của Tỉnh đoàn Quảng Ninh là đông nhất, với gần 20 người phần lớn là các hạt nhân văn nghệ của các đơn vị ngành than, giáo dục, đường thuỷ, thực phẩm, như: Huy Đô, Văn Anh, Thúy Hơn, Thanh Kim, Biên Hòa, Thanh Hòa, Xuân Tứ, Trần Dũng... Chuyến đi này kéo dài khoảng 1 tháng. Chúng tôi ra ngay khi Móng Cái vừa bị bắn phá, mục tiêu là phục vụ bộ đội ở các vùng biên giới, biển, hải đảo. Từ Móng Cái là đổ đi các nơi, về Tiên Yên, lên Cao Ba Lanh của Bình Liêu, ra Ba Chẽ, đi các đảo Vĩnh Trung, Vĩnh Thực (các địa danh cũ ở khu vực miền Đông của tỉnh - PV). Điều kiện chiến tranh nên anh em hồi ấy tương đối gian khổ, xe chở từ Hòn Gai ra đến đơn vị bộ đội, còn lên các chốt biểu diễn toàn đi bộ, đài đóm, loa máy thay nhau khênh. Sáng ra là leo lên chốt nhưng giờ biểu diễn không cố định nên có hôm 1 giờ, 1 rưỡi mới được ăn cơm trưa vì anh em đơn vị cứ lần lượt vừa xem văn nghệ vừa thay phiên nhau trực chiến. Đến đơn vị bộ đội cũng có gì ăn nấy, đôi khi mới được cải thiện một bữa tươi…
Ông bảo kỷ niệm xúc động nhất của đội là đợt diễn trên Cao Ba Lanh. Bộ đội ở trên điểm cao, không khí quanh năm ẩm ướt, quần áo không khô được, thậm chí anh em phải cho đồ vào chảo rang khô. Hôm ấy, đội diễn văn nghệ mà thấy chiến sĩ cứ ngồi xem 1-2 tiếng thì quay vào, lại thấy người khác ra vẫn mặc đúng bộ đồ ấy, sau chúng tôi mới biết chuyện họ không có đồ khô, phải thay nhau mặc lần lượt ra xem văn nghệ.

Ngày ấy, những người làm văn nghệ như Nghệ sĩ Vùng mỏ Văn Anh được là được về tình cảm của những công nhân, người lính còn đời sống vật chất thì nghèo. Ông bảo, thời ấy anh em vất vả, gian khó mà vô tư. Giờ kể lại chuyện cho chúng tôi, dù tuổi tác đã cao, ông vẫn còn nhớ rành mạch các chi tiết, dòng ký ức tự hào, thiêng liêng vẫn như một mạch nguồn không vơi cạn, thực sự làm xúc động người nghe.
Cùng các chiến sĩ hành quân
Giai đoạn 1968-1972, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt nhất, Quảng Ninh đã chỉ đạo ngành văn hoá thông tin cử 2 đội văn nghệ xung kích trực tiếp vào phục vụ chiến trường miền Nam. Mỗi đội có 16 người, lực lượng chủ yếu là các đoàn văn công chuyên nghiệp của tỉnh và nòng cốt văn nghệ một số ngành như ngành than, bưu điện, y tế, thương nghiệp, giáo dục... Hồng Hải (Mỏ Hà Tu), Quang Thọ (Mỏ Cọc Sáu) là những nghệ sĩ có xuất thân từ ngành Than, đã lần lượt tham gia 2 đội này.
Vậy là không chỉ mang tiếng hát, lời ca phục vụ các lực lượng chiến đấu ở trong tỉnh, các nghệ sĩ ngành Than đã cùng những nghệ sĩ Vùng mỏ khác khoác ba lô lên đường vào tuyến lửa miền Nam, mang tiếng hát để át tiếng bom rơi, mang nỗi nhớ, tình yêu, niềm tin, hy vọng của hậu phương ra tiền tuyến; xoa dịu những vất vả, gian khổ, hy sinh của người chiến sĩ; khơi dậy ý chí, tiếp thêm nghị lực cho đồng đội để mỗi bước chân ra trận vững vàng hơn, mỗi chiến công thêm rực rỡ.

Nhà viết kịch Tất Thọ (phường Bãi Cháy), tham gia chuyến đi năm 1971, giờ đây đã tròn 80 tuổi nhưng ký ức trong ông vẫn vẹn nguyên như vừa mới hôm qua. Ông kể: Các hạt nhân văn nghệ được tuyển chọn đều có giọng hát hay, tài năng, kể cả lực lượng chuyên nghiệp và không chuyên. Trước khi đi vào chiến trường, cả đội được tập huấn cả tháng trời ở Hội trường Đảng tại Bãi Cháy, từ kịch, hát tốp ca, đơn ca... Ngày thì học văn nghệ, sáng sớm - chiều tối thì chúng tôi đeo balo gạch tập đi bộ mấy cây số qua khu đồi thông Bãi Cháy, chuẩn bị cho việc hành quân vào Nam.
Các chương trình biểu diễn đều mang tính tổng hợp, phục vụ đa dạng nhu cầu của bộ đội. Chúng tôi có thể biểu diễn nhạc cụ từ sáo, đàn ghi ta, nhị cho tới hát dân ca các vùng miền, hát chèo, hát mới, diễn kịch ngắn, ngâm thơ... Ngoài những tiết mục đã chuẩn bị sẵn từ nhà, đi tới đâu anh em cũng thâm nhập thực tế các đơn vị rồi sáng tác luôn về họ, về công việc của họ, như về bộ đội đường ống, các cô gái giao liên, bộ đội tải thương, vận chuyển đạn dược, khí giới... để cổ vũ tinh thần, biểu dương các cán bộ, chiến sĩ. Các nghệ sĩ cũng rất đa năng, như Quang Thọ chuyên hát mới nhưng khi cần cũng tham gia đóng kịch, đóng chèo; anh em đoàn chèo cũng tham gia hát tốp ca nam...

Các buổi diễn của đoàn phần lớn vào ban ngày để tránh máy bay, tránh ánh đèn làm quân địch phát hiện ra. Sân khấu chiến trường chính là những vạt rừng, mé suối hoặc dưới gốc cây. Đồ diễn ngoài trang phục bộ đội chuyên dùng vẫn có thêm một số trang phục được trang sắm theo đặc thù của tiết mục, nhân vật. Còn diễn ban đêm phải ở trong nhà hầm, dùng ống bơ cho dầu vào để đốt lấy ánh sáng. Ông hài hước bảo: "Dầu đốt lên thì muội than đen nhẻm bám vào bộ đội, vào anh em văn công, nom ai cũng như thợ lò sau khi tan ca. Nhưng nhìn thế lại khiến chúng tôi dậy lên nỗi nhớ nhà. Hay những lúc đi qua cửa rừng, gió tươi thổi mát rượi y như khi thông lò, lò thủng khiến ai nấy đều sướng lắm, tỉnh cả người".
Văn công vào chiến trường ngày ấy được bộ đội quý mến lắm. Ông Tất Thọ cho hay, mỗi ngày đoàn có thể biểu diễn 3-4 ca, có khi giữa đường gặp đơn vị bộ đội đang hành quân, họ phấn khởi vì gặp văn công đề nghị đoàn biểu diễn, thế là các nghệ sĩ dừng lại, chuẩn bị phục trang, tiết mục ngay. Lúc nào cũng trong tinh thần sẵn sàng như thế, theo yêu cầu của chiến trường, theo yêu cầu của thực tế. Ai cũng vô tư, ai cũng sẵn sàng, không ai nghĩ đến nguy hiểm, chết chóc, không ai tính toán tư lợi gì cả.

Sức mạnh ấy khiến đội văn công xung kích đã vượt qua nhiều khó khăn, bám sát trận địa, tiếp lửa tinh thần cho chiến sĩ. Các thành viên của đội đa phần dẻo dai, thích nghi tốt nhưng điều kiện chiến tranh gian khổ, rừng núi cũng khiến không ít anh em ốm, sốt rét, có khi phải nằm lại binh trạm, nhưng khi hồi phục lại bám theo các đơn vị bộ đội để theo kịp đoàn. Ông dí dỏm bảo: "Đoàn chúng tôi bao giờ Tất Thọ cũng đi trước, Quang Thọ khóa đuôi, mọi người nói vui có 2 ông Thọ thế nên ai cũng an toàn, không chết được. Cũng có lúc anh em bị bom rơi tung đất đá mù mịt vùi lấp nhưng khi gạt ra thì đều không sao cả".
Theo thống kê chưa đầy đủ, đội thứ nhất vào phục vụ chiến trường B2, B3, Đoàn 559 năm 1968, đã biểu diễn tại 7 binh trạm, với 350 buổi diễn cho trên 3.500 lượt người xem. Đội được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Đội thứ hai đi năm 1971-1972 phục vụ chiến trường B, C, K, Đoàn 559, đã biểu diễn 185 buổi chính thức và nhiều buổi biểu diễn nhỏ lẻ. Đội đã được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
Sau khi trở về, các nghệ sĩ lại tiếp tục cống hiến cho nghệ thuật Vùng mỏ và cho đất nước, trở thành Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ Ưu tú, Nghệ sĩ Vùng mỏ, những nghệ sĩ của các đoàn nghệ thuật của tỉnh, những giọng ca thành danh trên sân khấu ca nhạc của tỉnh và cả nước. Nay họ đều đã cao tuổi, nhiều nghệ sĩ đã ra đi theo quy luật của thời gian nhưng những người còn sống và thế hệ hôm nay thì vẫn ghi nhớ sự đồng hành, đóng góp của họ với lịch sử dân tộc. Họ đã bằng lời ca, tiếng hát, sự dũng cảm từ trái tim mình để tiếp lửa tinh thần cho thợ mỏ, chiến sĩ ở nhiều mặt trận đi qua những giai đoạn khó khăn, ác liệt của chiến tranh, góp phần giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho quê hương, đất nước hôm nay.
Ý kiến ()