
Xây dựng các vùng nông thôn giàu có: Tháo điểm nghẽn, tạo ra nguồn lực đủ mạnh
Sau một thời gian dài được dành nguồn lực lớn, các chính sách thiết thực, nông thôn Quảng Ninh từng bước trù phú, hiện đại, đồng bộ về hạ tầng, sôi động về sản xuất, nông dân văn minh, giàu có. Trên nền tảng đã có, các vùng nông thôn được tỉnh xác định là cực tăng trưởng mới với nhiều dư địa phát triển.
Qua hơn 3 năm triển khai Đề án 196, hơn 10 năm triển khai chương trình xây dựng NTM, đang triển khai Đề án 06, Quảng Ninh không chỉ đưa các xã thôn thoát diện 135 mà còn phát triển vượt bậc. Những xã, thôn vùng biên giới, hải đảo, miền núi, vùng đồng bào DTTS đã xóa đi hình ảnh lạc hậu, nghèo nàn, thay vào đó là đường sá, cầu cống đồng bộ, liên thông, nhà cửa khang trang, sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, chuyên canh, chuyên sâu, sản phẩm có hàm lượng KHCN cao, có liên kết, có hướng xuất khẩu. Toàn tỉnh hiện có 91/91 xã đạt chuẩn NTM; trong đó có 53 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 25 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Những xã này đều đạt, đạt cao các tiêu chí sản xuất, thu nhập, diện mạo.

Ông Đào Văn Vũ, Phó Chủ tịch UBND huyện Vân Đồn, cho biết: Đa số các đơn vị hành chính của huyện là vùng nông thôn, mức chênh lệch về thu nhập của người dân nông thôn với người dân đô thị đã được kéo gần. Nông dân Vân Đồn làm chủ vùng nuôi trồng thủy sản trên biển, là một lĩnh vực kinh tế trọng điểm của huyện; làm chủ các vùng chuyên canh cây ăn quả, cây lâm nghiệp, mang lại giá trị kinh tế cao cho mỗi hộ gia đình. Hiện người dân khu vực nông thôn phát triển nông nghiệp gắn với du lịch, chế biến thủy sản sâu hơn, giá trị cao hơn.
Các xã, thôn của TP Đông Triều mang đậm nét văn hoá làng, xã và tư duy kinh tế nông nghiệp. Với nhiều sự trợ lực, người dân Đông Triều đã nhanh chóng nâng cao trình độ canh tác, thay đổi mô hình sản xuất, trở thành điển hình về dồn điền đổi thửa, tạo ra những cánh đồng mẫu lớn, vùng sản xuất chuyên canh, những mô hình chế biến nông sản, liên kết sản xuất nông nghiệp. Đông Triều đang hình thành nền sản xuất nông nghiệp đô thị, nông nghiệp giá trị cao, giảm diện tích canh tác, tăng hàm lượng KHCN, thiết bị máy móc thay thế sức người.
Từ sự chuyển động của các vùng nông thôn Quảng Ninh, đến hết năm 2024 toàn tỉnh đạt diện tích gieo trồng cây hằng năm 62.921,8ha, sản lượng lương thực cây có hạt đạt 212.055 tấn; đàn trâu khoảng 22.985 con, đàn bò khoảng 22.885 con, đàn lợn khoảng 269.993 con, đàn gia cầm khoảng 5,55 triệu con, sản lượng thịt hơi đạt 102.987 tấn; tổng sản lượng thủy sản 166.044 tấn (khai thác 76.851 tấn, nuôi trồng 89.193 tấn).

Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung cây lúa, rau, cây ăn quả, tổng diện tích khoảng 6.358ha; khoảng 1.100ha cây trồng theo quy trình sản xuất nông nghiệp tốt, trong đó có 322,35ha được cấp giấy chứng nhận VietGAP (lúa 154,68ha, rau củ 81,7ha, quả 53,2ha, chè 32,77ha); 90ha lúa, 329ha quế được cấp giấy chứng nhận sản xuất hữu cơ. Đến nay đã cấp được 63 mã số vùng trồng, tổng diện tích trên 1.528ha; trong đó 46 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu, 17 mã số vùng trồng phục vụ nội tiêu, 9 mã số cơ sở đóng gói. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2024 đạt 73,43 triệu đồng/năm.
Tiến tới xây dựng, nhân rộng những vùng nông thôn giàu có, những điểm nghẽn của kinh tế nông thôn đã được tỉnh nhìn nhận. Đó là quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, liên kết sản xuất chưa bền vững, công nghiệp chế biến chưa chuyên sâu. Ông Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc Sở NN&MT, phân tích: Gốc gác của những điểm nghẽn trên đó là sự nhỏ lẻ, manh mún từ trong tư duy và hành động. Nông thôn tỉnh đang trong tiến trình đô thị hóa, công nghiệp hóa rất mạnh. Ở một góc nhìn nào đó, đây cũng là lúc bắt đầu hình thành sự tích tụ tư liệu sản xuất, bao gồm tích tụ ruộng đất. Từ điểm nghẽn này, nếu được giải quyết, sản xuất nông nghiệp sẽ tăng quy mô về sản lượng, chủng loại, chất lượng sản phẩm, chế biến sâu, nông nghiệp chuyên canh, nông nghiệp công nghệ cao. Từ đó đưa các vùng nông thôn phát triển lên tầm cao mới, giàu có, vững mạnh hơn. Điểm khó nữa của các vùng nông thôn cần được giải quyết để phát triển thành những vùng nông thôn giàu có, đó chính là chính sách.

Thời gian qua, nông thôn Quảng Ninh được "bao phủ" nhiều chính sách, như hỗ trợ về hạ tầng, thiết bị trước, sau hàng rào, hỗ trợ lãi suất vốn vay, hỗ trợ thúc đẩy phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, có liên kết, chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp… Tuy nhiên, thời điểm hiện tại chưa có chính sách đủ mạnh, thủ tục đủ thông thoáng, bắt kịp với nhu cầu của doanh nghiệp nông nghiệp và nông dân. Ông Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc Sở NN&MT, cho biết: Tới đây, chính sách khuyến khích đầu tư liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản Quảng Ninh sẽ có điều chỉnh. Sở đang đẩy mạnh tham mưu nội dung này cho tỉnh. Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ "Về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn" với nhiều kiến nghị, đề xuất của các địa phương, dự kiến cũng sẽ có thay đổi; đây sẽ là một cú huých mới về chính sách cho các vùng nông thôn đổi mới. Nông thôn Quảng Ninh, nơi có tài nguyên cảnh quan tự nhiên, mặt đất, mặt nước - những tư liệu sản xuất cơ bản, có lực lượng lao động, có các tổ chức kinh tế tập thể, có sản vật địa phương…, đã và đang phát triển đúng hướng trong thời gian dài qua, sẽ trở thành cực tăng trưởng mới, lực đẩy phát triển kinh tế chung của tỉnh.
![]() Ông Nguyễn Văn Đức, Phó Giám đốc Sở NN&MT: “Thực hiện tốt các nhiệm vụ của ngành Nông nghiệp”Nông thôn Quảng Ninh thời điểm này đã có sự bứt phá vượt bậc. Tuy nhiên, trong bối cảnh các vùng nông thôn nói chung đều chuyển động nhanh, mạnh như hiện nay, để phát triển các vùng nông thôn Quảng Ninh tôi cho rằng trước mắt cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ của ngành Nông nghiệp. Đó là khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn; phát triển vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn; tổ chức các sản phẩm theo chuỗi, sản phẩm OCOP, sản phẩm chủ lực; định hướng xuất khẩu gắn với xây dựng cấp, quản lý mã số vùng trồng; xây dựng mở rộng vùng nuôi an toàn dịch bệnh; cấp phép NTTS và giao khu vực biển cho các tổ chức, cá nhân NTTS trên biển theo quy hoạch và tiêu chuẩn; chú trọng ứng dụng công nghệ cao cho nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái đa lợi ích; khuyến khích phát triển nông nghiệp thông minh; triển khai hiệu quả các đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ, phát triển chuỗi sản phẩm nông nghiệp chủ lực; phát triển vùng cây ăn quả tại huyện Đầm Hà, Tiên Yên; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao trong nông nghiệp, nâng cao chất lượng lao động nông thôn; tăng cường chính sách vay vốn ưu đãi cho nông dân để đầu tư sản xuất, phát triển sản phẩm mới.
|
![]() Bà Nguyễn Chi Mai, Chi cục trưởng Chi cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Sở NN&MT): “Phát triển du lịch gắn với nông nghiệp, nông thôn” Thực tế phát triển hiện nay của các vùng nông thôn Quảng Ninh có một hướng chuyển động rất đáng ghi nhận. Đó là các vùng nông thôn đã có các dự án nông nghiệp bền vững, có bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu. Các vùng nông thôn cũng giàu khả năng phát triển du lịch nhờ đặc điểm tự nhiên phong phú và cảnh quan đẹp. Hiện một số vùng nông thôn dần chuyển hướng phát triển du lịch nông thôn; một số địa phương đã phát triển du lịch nông thôn kết hợp với bảo tồn văn hóa, gắn kết du khách với các hoạt động sản xuất nông nghiệp và các giá trị truyền thống của vùng quê. Thời gian tới, du lịch nông nghiệp sẽ là một điểm nhấn phát triển ấn tượng của các vùng nông thôn. Những chính sách về thúc đẩy phát triển nông nghiệp đa mục đích, cụ thể là nông nghiệp gắn với du lịch, cần được đặt ra và áp dụng luôn; như hỗ trợ các nghề, làng nghề thủ công, truyền thống, các vùng chuyên canh nông nghiệp, các mô hình nông nghiệp xanh, sạch, tuần hoàn… phát triển gắn với du lịch. Đơn vị chuyên môn sẽ tham mưu cho cấp trên về nội dung này, qua đó kỳ vọng tạo lực đẩy phát triển cho những vùng nông thôn Quảng Ninh. |
Để xây dựng các vùng nông thôn giàu có, Nhà nước cần có chính sách xây dựng vùng trọng điểm chuyên canh từng loại cây trồng, vật nuôi. Vùng chuyên canh này phải có quy mô đủ lớn để tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững, đổi mới áp dụng công nghệ số vào sản xuất, nâng cao hiệu quả SXKD, tăng thu nhập và đời sống của nông dân, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải nhà kính. Nhà nước cần quan tâm thành lập các hiệp hội ngành hàng để tạo mối liên kết 3 khâu: Khâu cung cấp đầu vào (các doanh nghiệp cung cấp vật tư nông nghiệp, giống); khâu sản xuất - người nông dân; khâu tiêu thụ sản phẩm (thương lái và doanh nghiệp mua bán nội địa và xuất khẩu). Biến đổi khí hậu khiến cho nông dân trực tiếp bị ảnh hưởng. Do đó rất cần có chính sách để giải quyết bền vững, hiệu quả, cân đối hài hòa giữa vị thế và quyền lợi của nông dân. Nông dân cần trang bị kiến thức để làm chủ ruộng đồng, có trách nhiệm với thương hiệu sản phẩm của mình. |
![]() Bà La Thị Nguyên, thôn Bản Chuồng, xã Lục Hồn (huyện Bình Liêu): “Tiếp tục triển khai tốt các chương trình tín dụng chính sách” Tỉnh có những chuyển biến tích cực trong việc nâng cao mức sống khu vực nông thôn, miền núi, thu hẹp chênh lệch vùng miền. Thôn Bản Chuồng đã có nhiều hộ gia đình thoát nghèo thành công nhờ được hỗ trợ vay vốn ưu đãi của Ngân hàng CSXH để phát triển sản xuất. Những khoản vay từ tín dụng chính sách đã giúp người dân có hoàn cảnh khó khăn xây nhà ở kiên cố, “an cư” để ổn định cuộc sống. Để những khoản vay đến được với người dân có nhu cầu, sử dụng có hiệu quả, là sự quan tâm, đồng hành sát sao của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác. Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các chương trình tín dụng chính sách; tiếp tục triển khai tốt các hoạt động tín chấp vay vốn ưu đãi, để người dân vùng nông thôn, miền núi, biên giới có thêm điểm tựa, động lực phát triển. |
Để đóng góp vào mức tăng trưởng kinh tế GRDP đạt 14% của tỉnh trong năm 2025, ngành Nông nghiệp đặt mục tiêu phấn đấu mức tăng trưởng đạt 3,5%, đây là mức rất cao trong bối cảnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão số 3 (Yagi). Trong đó phấn đấu: Tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm khoảng 62.221ha; sản lượng lương thực cây có hạt đạt 215.860 tấn; tổng đàn gia súc, gia cầm 5.852.500 con; sản lượng thịt hơi các loại đạt 103.000 tấn; diện tích trồng rừng tập trung đạt 31.847ha; tổng sản lượng thủy sản 175.000 tấn...
|
Ý kiến ()