
Quốc hội thảo luận về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật
Cần đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu bộ, ngành, địa phương
Theo đại biểu Thạch Phước Bình (Trà Vinh), tên gọi của dự thảo là Nghị quyết về cơ chế xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật mang tính mô tả chung chung, thiếu tính quy phạm và không xác định rõ tính chất đặc thù của nghị quyết. Cụm từ “xử lý khó khăn, vướng mắc” là cách diễn đạt mang nhiều tính sự vụ, không phản ánh được bản chất là một cơ chế pháp lý tạm thời, được thiết kế nhằm ứng phó linh hoạt với các vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật hiện hành. Việc không nêu rõ tính tạm thời, không xác định ranh giới giữa nghị quyết này và các công cụ lập pháp thông thường dễ dẫn đến sự hiểu nhầm, thậm chí áp dụng kéo dài, trái với tinh thần quản lý pháp luật chuẩn mực.
Từ các phân tích trên, đại biểu kiến nghị điều chỉnh tên gọi của dự thảo nghị quyết theo hướng: “Nghị quyết về cơ chế tạm thời xử lý vướng mắc trong quy định pháp luật”. Tên gọi này đảm bảo đầy đủ các yếu tố bản chất: cơ chế - tạm thời - xử lý - vướng mắc - pháp luật. Đây là phương án thể hiện rõ nhất tính chuyển tiếp và linh hoạt của nghị quyết, phù hợp với cả nội dung và thời hiệu áp dụng văn bản.
Dự thảo Nghị quyết đã giao trách nhiệm rõ ràng cho các bộ, ngành, địa phương trong việc rà soát, đề xuất phương án xử lý các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Tuy nhiên, dự thảo chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm pháp lý hoặc hành chính nếu các cơ quan này không thực hiện, thực hiện chậm trễ hoặc chỉ thực hiện mang tính hình thức. Điều này dễ dẫn đến tình trạng “trên nóng - dưới lạnh”, ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai nghị quyết. Do đó, cần bổ sung quy định về chế tài, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu bộ, ngành, địa phương gắn với việc thực hiện nghĩa vụ rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật. Kết quả thực hiện có thể được đưa vào tiêu chí xếp loại công chức, công vụ, thi đua, khen thưởng.
Đại biểu Thạch Phước Bình cho hay, trong thực tiễn, không ít khó khăn lại phát sinh từ cách hiểu khác nhau giữa các địa phương hoặc cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến áp dụng không thống nhất, gây khó cho doanh nghiệp và người dân. Vì vậy, nên bổ sung quy định khẳng định rằng, bên cạnh việc xử lý mâu thuẫn trong quy định, các vướng mắc trong thi hành, giải thích và áp dụng pháp luật cũng cần được tiếp nhận, đánh giá và hướng dẫn xử lý. Đồng thời, giao Bộ Tư pháp phối hợp với các cơ quan chuyên ngành tổng hợp các trường hợp này để ban hành hướng dẫn áp dụng thống nhất, đảm bảo tính đồng bộ và công bằng trong thực thi pháp luật.
Bên cạnh đó, dự thảo chưa quy định việc công khai thông tin về tình trạng xử lý các vướng mắc pháp luật, dẫn đến người dân và doanh nghiệp không biết văn bản nào đang trong diện xem xét, không có cơ hội góp ý, phản hồi, và không theo dõi được tiến độ cải cách. Cần bổ sung quy định yêu cầu Bộ Tư pháp hoặc Văn phòng Chính phủ công bố định kỳ danh mục văn bản đang có vướng mắc, phương án dự kiến xử lý, tiến độ thực hiện, và cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo dõi, góp ý. Việc cập nhật nên thực hiện trên Cổng thông tin pháp luật quốc gia, có tính công khai và minh bạch cao.
Đại biểu phân tích, một điểm tích cực khác là quy định xem xét miễn trách nhiệm cho cán bộ nếu tuân thủ đúng quy trình và không có động cơ vụ lợi, qua đó góp phần “cởi trói" tâm lý sợ sai khi thực hiện nhiệm vụ công. Tuy nhiên, cơ chế miễn trách nhiệm tuy có tính nhân văn nhưng chưa có tiêu chí kiểm chứng cụ thể, có thể bị lợi dụng để bao che sai sót hoặc tránh né trách nhiệm. Vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh còn khá mờ nhạt, chủ yếu ở vai trò giám sát, chưa có quyền đề xuất trực tiếp các biện pháp xử lý văn bản vướng mắc từ địa phương. Ngoài ra, thiếu vắng quy định về kiểm tra, đánh giá định kỳ kết quả thực hiện Nghị quyết.
“Tôi đề nghị cần làm rõ điều kiện để được miễn trách nhiệm, cụ thể là phải có kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm tra hoặc kiểm toán xác định cán bộ không sai phạm. Đồng thời, cần mở rộng vai trò cho HĐND cấp tỉnh, cho phép kiến nghị xử lý hoặc bãi bỏ các văn bản pháp luật không còn phù hợp tại địa phương”, đại biểu nêu ý kiến.
Đảm bảo chất lượng, tính bền vững

Theo đại biểu Nguyễn Thị Sửu (TP Huế), việc bổ sung quy định “bảo đảm tính hợp hiến, tính thống nhất của hệ thống pháp luật” vào nguyên tắc tại khoản 1 Điều 3 của dự thảo Nghị quyết là hoàn toàn phù hợp, cần thiết và có ý nghĩa đảm bảo chất lượng, tính bền vững trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Theo đại biểu, Cơ quan soạn thảo đã hướng đến khẳng định một trong các trụ cột của nhà nước pháp quyền hiện đại rằng “quyền con người, quyền công dân là tối thượng, pháp luật phải bảo vệ và thúc đẩy quyền này một cách chủ động, thực chất”. Đồng thời, thể hiện được yếu tố công bằng, minh bạch, hạn chế tối đa rào cản phi lý cho người dân, doanh nghiệp - điều kiện then chốt để tạo môi trường pháp lý thuận lợi và thúc đẩy phát triển bền vững.
Tuy nhiên, đại biểu lưu ý rất cần làm rõ và diễn đạt chặt chẽ yếu tố đảo đảm và tăng cường quyền, lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân, đặc biệt các nhóm yếu thế. Hiến pháp 2013 khẳng định các quyền cơ bản, đặc biệt tại các điều: 14 (quyền con người), 32 (quyền sở hữu), 33 (quyền tự do kinh doanh), 34 (an sinh xã hội). Theo đại biểu, pháp luật phải đi trước và mở đường cho các quyền này được thực thi, không chỉ bảo vệ mà còn tạo điều kiện thực tế để các chủ thể (gồm cả tổ chức xã hội, nhóm yếu thế như người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật,...) vươn lên.
Đồng thời, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bảo đảm người dân, doanh nghiệp có thể tiếp cận, hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình; ngăn chặn nguy cơ “lạm quyền”, “nhũng nhiễu” do thủ tục phức tạp mập mờ; tăng ứng dụng công nghệ số, công khai quy trình xử lý trên cổng dịch vụ công quốc gia; phát triển môi trường pháp lý thuận lợi, công bằng nhắm đến nền pháp luật kiến tạo rằng không chỉ tháo gỡ vướng mắc mà còn nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, môi trường đầu tư thông thoáng, công bằng cho mọi chủ thể.
“Chính sách pháp luật phải hỗ trợ, trao quyền thay vì kiểm soát, ngăn cấm không cần thiết”, đại biểu nhấn mạnh.
Đại biểu TP Huế cho rằng, khi áp dụng nguyên tắc này trong lập pháp góp phần hạn chế lạm quyền, phòng chống tham nhũng, thúc đẩy cải cách thể chế, bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể; đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia...
Vì vậy, đại biểu đề nghị chỉnh tại khoản 5 Điều 3 như sau: Bảo đảm và tăng cường quyền, lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân, nhất là người dân, doanh nghiệp, các nhóm dễ bị tổn thương; không làm tăng gánh nặng hoặc phát sinh trách nhiệm bất hợp lý; minh bạch, đơn giản hóa thủ tục hành chính; phát triển môi trường pháp lý thuận lợi, công bằng.
Ý kiến ()