
Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV ĐBQH tỉnh Quảng Ninh cho ý kiến đối với một số dự án luật quan trọng
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 23/6, Quốc hội tiến hành phiên thảo luận tại tổ về các dự thảo luật: Luật Tương trợ tư pháp về dân sự; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Tình trạng khẩn cấp; Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Dẫn độ.
Cho ý kiến vào hai dự án Luật tương trợ tư pháp, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, bày tỏ sự đồng tình, thống nhất cao với nội dung các tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp.
Góp ý về bố cục văn bản luật, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà đề nghị nên điều chỉnh thứ tự các điều luật trong dự thảo theo hướng đưa phần “Giải thích từ ngữ” lên trước “Phạm vi điều chỉnh” để thống nhất với thông lệ kỹ thuật lập pháp, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận và áp dụng luật.
Đối với Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, liên quan đến khoản 4, Điều 3 về nội dung cung cấp giấy tờ, bản án, quyết định của tòa án có thông tin hộ tịch, đại biểu cho rằng việc quy định bắt buộc cung cấp bản án, quyết định là không cần thiết và có thể dẫn đến nguy cơ lộ lọt thông tin cá nhân, ảnh hưởng đến quyền riêng tư. Do đó, chỉ nên quy định việc cung cấp thông tin về hộ tịch là đủ. Về khoản 5 cùng điều luật, đại biểu góp ý cần làm rõ nội hàm của cụm từ “thông tin pháp luật” bởi khái niệm này quá rộng, dễ gây nhầm lẫn và khó xác định phạm vi thực hiện. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo giới hạn phạm vi hoặc có định nghĩa rõ ràng để đảm bảo tính minh bạch.
Đối với khoản 2, Điều 5 về áp dụng pháp luật nước ngoài, dự thảo hiện quy định không trái với các nguyên tắc tương trợ tư pháp tại Điều 6. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng các nguyên tắc tại Điều 6 chưa đủ bao quát các quy định nền tảng của pháp luật Việt Nam. Do đó, cần điều chỉnh theo hướng không trái với “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” để bảo đảm tính bao trùm và đầy đủ.
Đại biểu cũng cho rằng quy định tại Điều 14 về thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp còn phân tán, thiếu thống nhất khi giao thẩm quyền cho nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đề xuất được đưa ra là nên quy định Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối duy nhất nhằm tăng tính thống nhất và hiệu quả.

Đặc biệt, tại khoản 3, Điều 22, dự thảo giao doanh nghiệp bưu chính công ích thực hiện việc tống đạt giấy tờ do nước ngoài chuyển đến. Đại biểu bày tỏ lo ngại về tính khả thi và độ tin cậy của quy định này, đề nghị cần nghiên cứu, xem xét lại để bảo đảm tính nghiêm túc, chính xác của hoạt động tương trợ tư pháp.
Với dự thảo Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà tập trung vào các nội dung liên quan đến cơ chế phối hợp quốc tế và tính khả thi trong xử lý tình huống thực tiễn.
Tại Điều 7, khoản 2, đại biểu đề nghị bổ sung quy định cụ thể để xử lý tình huống khi cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không phúc đáp yêu cầu tương trợ của Việt Nam. Theo đại biểu, thực tế cho thấy nhiều yêu cầu không được phản hồi, kéo dài, làm ảnh hưởng tới tiến độ điều tra, xét xử, dẫn đến việc mất hiệu lực hoặc bỏ lỡ thời điểm cần thiết.
Góp ý về Điều 9, khoản 1, đại biểu cho rằng cụm từ “tống đạt văn bản, tài liệu tố tụng hình sự” có nội hàm quá rộng, không rõ ràng. Nên thay bằng “tống đạt quyết định hoặc tài liệu cụ thể” để đồng bộ với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại khoản 3 điều này, cụm từ “vật chứng, dữ liệu điện tử, tài liệu, đồ vật” nên được gom lại thành một khái niệm chung là “chứng cứ” để phù hợp hơn với thuật ngữ pháp lý hiện hành.
Đối với Điều 10 về chứng nhận và hợp pháp hóa lãnh sự, đại biểu đề nghị bổ sung thêm phần “giải thích từ ngữ” nhằm thống nhất cách hiểu và tránh gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Tại Điều 16 về cam kết không thi hành hình phạt tử hình theo yêu cầu của nước ngoài, dự thảo hiện giao Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp đề xuất Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Đại biểu đề nghị nghiên cứu phương án phân quyền cụ thể hơn, có thể ủy quyền cho cơ quan chức năng liên quan trong một số trường hợp, vừa giảm tải nhiệm vụ cho Chủ tịch nước, vừa đảm bảo tính linh hoạt và hiệu quả. Cuối cùng, đối với Điều 38 quy định Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm vụ “quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp hình sự”, đại biểu cho rằng quy định này chưa phù hợp với vị trí, chức năng của Viện Kiểm sát – là một cơ quan tư pháp, không có chức năng quản lý hành chính. Do đó, cần điều chỉnh để bảo đảm đúng thẩm quyền theo quy định của Hiến pháp.
Trong phiên thảo luận chiều đối với dự án Luật Tình trạng khẩn cấp và Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh, bày tỏ sự đồng thuận cao về sự cần thiết ban hành hai dự án luật này, đồng thời đưa ra nhiều góp ý cụ thể nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, khả thi, đồng bộ với hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Về dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp, đại biểu nhấn mạnh đây là văn bản luật lần đầu được xây dựng nhằm tạo lập một khung pháp lý thống nhất, đầy đủ hơn so với trước đây khi các quy định liên quan còn rải rác trong nhiều luật như Luật Quốc phòng; Luật Phòng, chống thiên tai... Việc ban hành luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả ứng phó trong các tình huống đặc biệt, đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân, tăng cường khả năng xử lý linh hoạt với những thách thức an ninh phi truyền thống.
Góp ý vào nội dung cụ thể, đại biểu cho rằng một số quy định trong dự thảo cần tiếp tục được hoàn thiện. Chẳng hạn, quy định yêu cầu doanh nghiệp chuyển đổi sản xuất để đáp ứng nhu cầu trong tình trạng khẩn cấp cần phải làm rõ cơ chế thực hiện, như việc Nhà nước có hỗ trợ hay đặt hàng, bởi nếu không có quy định cụ thể sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân. Tại khoản 2, Điều 15, dự thảo quy định đội tuần tra đặc biệt có quyền khám người, khám nơi ở, tạm giữ phương tiện, tang vật… là những nội dung rất nhạy cảm, cần được rà soát để đảm bảo phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự, tránh xung đột, mâu thuẫn về thẩm quyền và trình tự thủ tục.
Đại biểu cũng nêu băn khoăn về cụm từ “có thể gây nguy hại” trong quy định liên quan đến việc tịch thu hoặc phong tỏa tài sản cá nhân, tổ chức. Theo đại biểu, nếu chưa xác định rõ ràng mức độ nguy hại mà đã áp dụng biện pháp mạnh như tịch thu tài sản là chưa đủ cơ sở pháp lý và dễ bị lạm dụng. Việc này cần có quy trình, thủ tục chặt chẽ, căn cứ rõ ràng để tránh ảnh hưởng đến quyền tài sản của công dân. Ngoài ra, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong tình trạng khẩn cấp như “hoãn thủ tục phá sản” cũng cần được cân nhắc kỹ, vì có thể đi ngược lại bản chất hỗ trợ, khiến doanh nghiệp kéo dài thêm thời gian khó khăn mà không giải quyết được vấn đề cốt lõi.
Liên quan đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, đại biểu đề nghị bổ sung rõ nội dung giám sát việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp. Điều này nhằm đảm bảo tính minh bạch, hạn chế việc lạm quyền và phát huy vai trò phản biện xã hội trong quá trình thực thi pháp luật.
Đối với dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà đồng thuận với việc tách Luật Tương trợ tư pháp thành bốn luật chuyên biệt để đảm bảo tính chuyên sâu, phù hợp thực tiễn và tăng hiệu quả hợp tác quốc tế. Theo đại biểu, trong quy định về nguyên tắc “có đi có lại”, cần bổ sung cụ thể các bộ, ngành và địa phương có liên quan để đảm bảo phạm vi điều chỉnh được đầy đủ, tránh bỏ sót trách nhiệm các cơ quan liên quan trong quá trình phối hợp. Tại Điều 18, việc bổ sung thông tin về nơi tạm trú của người được chuyển giao là cần thiết nhằm đảm bảo đầy đủ thông tin phục vụ công tác quản lý sau khi chuyển giao.
Về thời hạn phản hồi yêu cầu bổ sung thông tin từ nước chuyển giao, đại biểu đề xuất rút ngắn thời gian từ 60 ngày xuống 30 ngày, vì đây là thủ tục thông thường, không yêu cầu phải điều tra lại từ đầu. Thời hạn quá dài có thể khiến việc chuyển giao bị trì hoãn không cần thiết. Bên cạnh đó, đối với những lý do phát sinh khiến việc chuyển giao không thể thực hiện, ngoài hai lý do là người chấp hành án chết hoặc bỏ trốn, cần bổ sung thêm những tình huống khác để đảm bảo tính linh hoạt trong thực tiễn thi hành luật. Ngoài ra, tại Điều 31, quy định về quyền từ chối chuyển giao cần được mở rộng, theo đó nên bổ sung các yếu tố như tra tấn, đối xử vô nhân đạo, hạ nhục nhân phẩm… để phù hợp với chuẩn mực bảo vệ nhân quyền quốc tế và đảm bảo quyền lợi của người bị chuyển giao.
Ý kiến ()