
Phát triển vùng đồng bào DTTS: Chính sách đúng, hiệu quả tích cực
Những năm gần đây, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi của tỉnh có sự thay đổi vượt bậc, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng lên. Kết quả đó khẳng định sự quan tâm của tỉnh trong việc ban hành các chính sách đúng đắn, kịp thời.
Những chủ trương, chính sách chiến lược
Tỉnh Quảng Ninh xác định phát triển vùng dân tộc thiểu số (DTTS) không chỉ là nhiệm vụ an sinh, mà là chiến lược dài hạn để tạo cân bằng phát triển giữa miền núi - đồng bằng - ven biển, bảo đảm ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa. Ngay khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, Tỉnh ủy Quảng Ninh đã sớm ban hành các văn bản lãnh đạo, cụ thể hóa thành nghị quyết chuyên đề (Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 17/5/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ XV), chỉ đạo lồng ghép nguồn lực và phân công rõ trách nhiệm cho từng cấp, từng ngành. HĐND tỉnh đã kịp thời ban hành nhiều nghị quyết về phân bổ ngân sách, cơ chế đặc thù, chính sách hỗ trợ sinh kế, hạ tầng, y tế, giáo dục phù hợp đặc điểm vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào DTTS, nổi bật là Nghị quyết số 16/NQ-HĐND (ngày 16/7/2021) phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển bền vững kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh ở các xã, thôn, bản vùng đồng bào DTTS, miền núi, biên giới, hải đảo tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030.
UBND tỉnh chủ trì điều hành thực hiện đề án, nghị quyết với tinh thần hành động quyết liệt, sát thực tế, xây dựng kế hoạch chi tiết đến từng xã, từng thôn, tập trung ưu tiên nguồn lực cho những vùng khó khăn nhất. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập được tiến hành thường xuyên, gắn trách nhiệm của chính quyền cấp huyện, xã với kết quả thực hiện các chỉ tiêu giảm nghèo và cải thiện đời sống dân sinh.

Với tiềm lực có sẵn, tỉnh Quảng Ninh được Trung ương giao chủ động sử dụng ngân sách địa phương để thực hiện đề án. Hằng năm, căn cứ các quy định, hướng dẫn của Trung ương, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh cân đối nguồn lực thực hiện. Với chủ trương này, tỉnh xác định rõ nguồn lực, mục tiêu, đề ra các giải pháp điều hành kinh tế, ngân sách đáp ứng yêu cầu thực hiện đề án hằng năm và cả giai đoạn 2021-2025.
Trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh bố trí tổng nguồn vốn trên 7.000 tỷ đồng thực hiện Đề án, trong đó ngân sách tỉnh bố trí trên 4.750 tỷ đồng; ngân sách huyện, xã trên 2.240 tỷ đồng. Ngoài ra, tỉnh huy động trên 16.200 tỷ đồng vốn lồng ghép, xã hội hóa, huy động hợp pháp khác để triển khai các dự án, tiểu dự án và nội dung thành phần thuộc đề án, chương trình của tỉnh.
Đồng chí Lục Thành Chung, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo, cho biết: Quan điểm của tỉnh là không phát triển bằng mọi giá mà phải phát triển hài hòa. Mỗi chính sách triển khai ở vùng DTTS phải tính đến yếu tố bền vững. Bền vững về sinh kế, văn hóa, môi trường và bản sắc, không chỉ làm kinh tế mà còn gìn giữ tâm hồn dân tộc ở từng bản làng.
Định hướng phát triển vùng đồng bào DTTS ở Quảng Ninh hiện nay không tách rời mục tiêu “phát triển bao trùm”, mà được lồng ghép trong chiến lược phát triển chung của tỉnh, hướng tới xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh kiểu mẫu trong thực hiện chính sách dân tộc, vừa năng động về kinh tế, vừa sâu sắc trong bảo tồn văn hóa.
Trong giai đoạn 2021-2025, đã có hơn 2.500 hộ dân vùng đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh được hỗ trợ nguồn vốn phát triển sinh kế, từ trồng rừng cây gỗ lớn, trồng quế, sở, cây dược liệu đến chăn nuôi quy mô lớn theo mô hình tổ hợp tác. Vì thế, kinh tế, thu nhập bình quân đầu người vùng DTTS, miền núi của tỉnh Quảng Ninh đã cải thiện rõ rệt so với thời điểm trước khi triển khai thực hiện đề án.
Nếu như năm 2020, thu nhập bình quân đầu người vùng đồng bào DTTS, miền núi của tỉnh đạt 43,7 triệu đồng/người/năm, thì đến hết năm 2024, tỷ lệ thu nhập đầu người tăng lên gần 84 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào DTTS giảm nhanh, đến cuối năm 2023 toàn tỉnh không còn hộ nghèo, qua đó hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 theo chuẩn đa chiều của Trung ương và đang từng bước không còn hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều áp dụng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023-2025 tại Nghị quyết số 13/NQ-HĐND ngày 30/3/2023 của HĐND tỉnh.

Đồng chí Lê Văn Ánh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, cho biết: Tỉnh Quảng Ninh không chỉ hướng đến hoàn thành các chỉ tiêu về đầu tư, mà muốn tạo ra giá trị phát triển thực chất cho người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS. Sự hài lòng và chủ động vươn lên của người dân là thước đo thành công của các đề án, chương trình của tỉnh.
Cách làm đó đã tạo ra niềm tin trong cộng đồng. Không ít mô hình sản xuất nhỏ lẻ ở vùng cao nay đã trở thành tổ hợp tác, HTX hoạt động hiệu quả. Đồng bào DTTS từ chỗ trông chờ, ỷ lại đã dần thay đổi tư duy, tích cực tiếp cận kỹ thuật mới, chủ động kết nối thị trường. Anh Tằng A Tài (thôn Ngàn Chuồng, xã Lục Hồn) chia sẻ: Trước kia, bà con mong chính sách hỗ trợ, nay được nhà nước cho học nghề, cho vay vốn để làm ăn, con cháu cũng từ đó mà có điều kiện được học hành đầy đủ.
Toàn tỉnh đã triển khai 785 công trình, dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu, như: Đường giao thông nông thôn, hệ thống điện, cấp nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế. Đến nay, 100% xã vùng dân tộc đã có đường ô tô đến trung tâm, 100% thôn, bản có điện lưới quốc gia, 100% thôn, bản có sóng điện thoại di động 4G, 85,5% hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Đây là điều kiện quan trọng tạo "đòn bẩy" để đồng bào DTTS tiếp cận thị trường, dịch vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Tỉnh Quảng Ninh cũng đã hỗ trợ xây dựng, sửa chữa trên 40 công trình trường học, phòng học, nhà bán trú tại các xã đặc biệt khó khăn; đầu tư trạm y tế đạt chuẩn tại 100% các xã thuộc vùng DTTS. Tỷ lệ trẻ em đến trường duy trì ở mức trên 98%, tỷ lệ học sinh DTTS bỏ học giảm rõ rệt. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào được cải thiện; tỷ lệ người dân tham gia BHYT tại khu vực này đạt trên 98,5%.
Chị Đặng Thị Minh Huệ, cán bộ y tế xã Đầm Hà, cho biết: Nhờ đầu tư trạm y tế mới, người dân không phải đi xa khám bệnh và cũng thuận tiện khi trẻ em tiêm chủng, phụ nữ được tư vấn sinh sản, người già được khám định kỳ. Những điều tưởng chừng đơn giản nay đã giúp thay đổi lớn với vùng khó khăn như nơi chúng tôi đang sống.
Tiếp tục tập trung cho vùng khó
Cùng với cả nước, từ ngày 1/7/2025, tỉnh Quảng Ninh chính thức thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã), trong đó sáp nhập 171 đơn vị hành chính cấp xã thành 54 xã, phường, đặc khu, đặt ra những yêu cầu lớn, tầm nhìn mới. Đặc biệt, để tiếp tục phát triển mạnh mẽ KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi trong giai đoạn tiếp theo, tỉnh đang tập trung triển khai các giải pháp toàn diện, bài bản, dài hơi và có hệ thống từ tỉnh đến cơ sở.
Bên cạnh việc toàn tỉnh kiện toàn hệ thống chính trị, hành chính cấp xã sau sáp nhập, bảo đảm giữ vững hoạt động ổn định, không để gián đoạn cung ứng dịch vụ công cho người dân và bố trí cán bộ người DTTS có năng lực, uy tín vào các vị trí chủ chốt, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng dân tộc, tỉnh Quảng Ninh chỉ đạo các sở, ban, ngành địa phương rà soát lại các cơ chế, chính sách của tỉnh đã được ban hành còn hiệu lực, từ đó đối chiếu vào tình hình thực tế hiện nay sau sắp xếp để thấy còn phù hợp hay không, từ đó đề xuất điều chỉnh, bổ sung, hoặc thay thế nghị quyết khác.

Thường trực HĐND tỉnh đã giao các Ban HĐND tỉnh thực hiện công tác giám sát đối với các nghị quyết của HĐND tỉnh còn hiệu lực, nhất là các nghị quyết liên quan trực tiếp đến an sinh phúc lợi xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, từ đó đánh giá, xem xét còn phù hợp trong bối cảnh hiện tại, kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, thay thế nghị quyết mới thích hợp hơn.
Ông Tô Văn Hải, Phó Bí thư Đảng uỷ đặc khu Vân Đồn, Tổ đại biểu HĐND tỉnh tại đặc khu Vân Đồn - Cô Tô, cho rằng: Khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, các xã, phường mới có quy mô dân số, diện tích tự nhiên lớn hơn, theo đó cần thiết HĐND tỉnh cũng như các xã phải ban hành thêm các nghị quyết mới để đảm bảo nguồn lực đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thông kết nối, hạ tầng phát triển sản xuất; mở rộng các đối tượng được xem xét hỗ trợ kinh phí, giống, kinh nghiệm, đào tạo nghề. Đặc biệt, phải nghiên cứu ban hành nghị quyết mới thật sự dễ thực hiện, tránh gây khó khăn, cản trở cho đối tượng thụ hưởng.
Thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, cấp xã sẽ trở thành “cánh tay nối dài” quan trọng của cấp tỉnh. Từ đó, tỉnh sẽ nghiên cứu phân cấp mạnh trong quản lý đầu tư, sử dụng đất, dịch vụ công, quản lý dân cư; ban hành các quy trình rút gọn, mô hình hành chính đặc thù vùng DTTS.
Trước mắt, tỉnh thực hiện rà soát, ưu tiên đầu tư các công trình hạ tầng liên xã, liên thôn (đường, cầu, điện, nước) để kết nối lại hệ thống các xã sau sáp nhập địa giới; hỗ trợ quy hoạch cụm dân cư tập trung ở vùng khó khăn, gắn với quy hoạch trường học, trạm y tế, điểm giao dịch dịch vụ công; đẩy mạnh hỗ trợ sinh kế theo chuỗi giá trị (liên kết hợp tác xã - doanh nghiệp - thị trường) cho các sản phẩm đặc sản vùng cao như quế, sở, cây dược liệu, sản phẩm OCOP; triển khai nền tảng quản trị xã số, kết nối dữ liệu dân cư, hộ nghèo, giúp cấp tỉnh theo dõi, cấp xã triển khai chính xác.

Đồng chí Phạm Đức Ấn, Chủ tịch UBND tỉnh, cho biết: Quan điểm của tỉnh Quảng Ninh là luôn dành sự quan tâm đặc biệt để phát triển vùng khó khăn, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào DTTS. Dự kiến trong thời gian tới đây, bên cạnh những cơ chế, chính sách được xem xét trình HĐND tỉnh ban hành, UBND tỉnh sẽ trình HĐND tỉnh tổng nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2026-2030, trong đó sẽ tính toán ưu tiên nguồn lực cho các vùng khó khăn này, đảm bảo làm sao các khu vực này sẽ đồng bộ, đầy đủ về hạ tầng kỹ thuật, nâng cao chất lượng đời sống, phục vụ phát triển KT-XH bền vững.
Bằng quyết tâm chính trị cao, cách làm linh hoạt và sự đồng hành chặt chẽ giữa chính quyền - doanh nghiệp - người dân, Quảng Ninh đang từng bước khẳng định một mô hình phát triển DTTS đặc thù nhưng không biệt lập, toàn diện nhưng không áp đặt, bền vững nhưng vẫn giữ được cốt cách văn hóa bản địa dựa trên những trụ cột: “Thiên nhiên tươi đẹp - Văn hóa đặc sắc - Xã hội văn minh - Hành chính minh bạch - Kinh tế phát triển - Nhân dân hạnh phúc”.
Ý kiến ()