
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, ngành than đã dốc toàn lực vừa sản xuất, vừa bảo vệ khu mỏ và sẵn sàng đánh bại các cuộc chiến tranh phá hoại của địch; góp phần vào thắng lợi của cả nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Tháng 12/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 12 khẳng định: “Chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của dân tộc ta”. Hội nghị đề ra nhiệm vụ cụ thể cho miền Bắc, trong đó cùng với nhiệm vụ đánh bại chiến tranh phá hoại, có nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu kinh tế, chính trị, tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất. Tháng 8/1965, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Tổng công ty Than Quảng Ninh. Trong năm, Đảng ủy Tổng công ty đã họp hội nghị quyết định phương hướng sản xuất và chiến đấu của Tổng công ty trong tình hình mới; từ đó chỉ đạo xuyên suốt quá trình sản xuất và chiến đấu của ngành than trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc và khu mỏ Quảng Ninh.
![]() |
Tự vệ ngành Than tháo kíp một quả bom do máy bay Mỹ thả xuống Hòn Gai. Ảnh tư liệu |
Thực hiện Nghị quyết, Tổng công ty Than một mặt tiến hành sơ tán người, tài sản, máy móc, thiết bị, kho tàng, mặt khác tổ chức lực lượng đánh trả quyết liệt cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Với tinh thần thời chiến, có nhiều biện pháp triển khai đồng bộ. Việc tổ chức sơ tán cho cán bộ, công nhân viên, người già, trẻ em được Tổng công ty tiến hành nhanh chóng và triệt để; giảm được mật độ người không cần thiết mà vẫn đảm bảo được sản xuất, chiến đấu, tránh được thương vong và thiệt hại do chiến tranh leo thang phá hoại.
Chia sẻ về hoạt động của ngành than thời kỳ này, ông Hoàng Tuấn Dương – Nguyên Trưởng Ban tuyên giáo Đảng ủy Than Quảng Ninh kể lại: Bấy giờ, công tác sơ tán được tiến hành khẩn trương; máy móc, thiết bị, vật tư được vận chuyển rời khỏi khu vực trọng điểm đánh phá của địch đến nơi sơ tán, vào hang đá để cất giấu và duy trì sản xuất. Tôi còn nhớ Nhà máy cơ khí Cẩm Phả đã di chuyển an toàn toàn bộ nhà máy lên hang đá cây số 5 (Cẩm Phả) đảm bảo cho hơn 1.000 cán bộ, công nhân viên làm việc 3 ca liên tục, máy móc hoạt động bình thường, đảm bảo sản xuất an toàn trong mọi tình huống ngày cũng như đêm, trở thành “Pháo đài thép” của vùng than Quảng Ninh.
Ngành than có đặc điểm khác với các ngành khác là công trường khai thác lộ thiên, hầm lò, công xưởng, nhà máy, bến cảng hoạt động ở những địa điểm cố định. Do đó, bằng mọi cách công nhân, cán bộ vẫn phải bám trụ để duy trì sản xuất. Để khắc phục, cán bộ công nhân đã có nhiều sáng tạo bằng việc đào các hầm hố, giao thông hào tại các khu vực sản xuất. Nhiều cơ quan đầu não cấp cao của Tổng công ty, xí nghiệp tận dụng các hang đá và đào hầm, hào sâu để có trụ sở làm việc, hội họp, cứu chữa nạn nhân chiến tranh… Chính những nơi này đã trở thành nơi hoạt động của bộ máy đầu não, chỉ huy điều hành sản xuất và chiến đấu của ngành than trong suốt 2 cuộc chiến tranh leo thang đánh phá hủy diệt của giặc Mỹ vào khu mỏ Quảng Ninh. “Thời điểm này, công nhân mỏ đào được 3.981 hầm cá nhân, 1.221 m giao thông hào, 40.000 m khối đất đá, tận dụng hàng trăm tấn sắt thép, hàng ngàn m3 gỗ, tre làm nhà trẻ, mẫu giáo, trường học nơi sơ tán" - ông Hoàng Tuấn Dương cho biết thêm.
![]() |
Sản xuất than ở mỏ Đèo Nai những năm kháng chiến chống Mỹ. |
Cùng với đó, ngành than đã chỉ đạo tất cả các cơ quan, xí nghiệp, trường học… lập các đài, trạm quan sát và hệ thống báo động, báo yên bằng còi điện, kẻng và loa điện, loa tay… để cán bộ, công nhân chủ động sản xuất, phòng tránh. Các đơn vị cơ quan, xí nghiệp ngành than còn tổ chức lực lượng thường trực cứu sập hầm, cứu tải thương, chữa cháy, tổ công binh bảo vệ trị an. Năm 1965, ngành than Quảng Ninh có 5 bệnh xá, đến năm 1966 đã có 9 bệnh xá với hàng trăm giường bệnh.
14h30 ngày 5/8/1964, máy bay Mỹ bắt đầu đánh phá Hòn Gai. Sau 30 phút, chúng đã ném 16 quả bom, bắn nhiều đạn rốc két, khiến một công nhân xí nghiệp bến Hòn Gai hi sinh, làm bị thương ba người khác, đánh đắm một xà lan chở than, hỏng 2 toa xe lửa và một đoạn đường ra của xí nghiệp bến Hòn Gai. Bằng sự quả cảm, quân dân, tự vệ công nhân bến Hòn Gai bắn rơi máy bay bắt sống tên Trung úy phi công Mỹ Everette Alvarez. Đây là phi công Mỹ đầu tiên bị bắt trên Miền Bắc.
Sau trận đánh ác liệt, ngày 15/8/1964, lực lượng tự vệ mỏ đã tăng cường nhanh chóng lên gần 600 chiến sĩ trực chiến sẵn sàng chiến đấu, riêng 2 khu vực Hòn Gai, Cẩm Phả có tới 5.515 chiến sĩ, tăng gấp 3 lần năm 1955-1957. Mỗi đơn vị có một đại đội tự vệ, được trang bị 34 khẩu pháo phòng không loại 37mm, hàng trăm súng các loại. Đến năm 1966, tổng số tự vệ chỉ riêng 2 khu vực Hòn Gai, Cẩm Phả đã lên tới 8.787 người, chiếm 41% tổng số cán bộ, công nhân viên chức. Số lượng này đã được biên chế thành 11 tiểu đoàn và 4 đại đội, có mặt thường trực chiến đấu ở hầu khắp các trận địa, đồi pháo từ Mạo Khê đến Hòn Gai, Cẩm Phả, Mông Dương… tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân ở khắp vùng mỏ Quảng Ninh.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ lần thứ nhất vào vùng mỏ, các đơn vị ngành than thiệt hại nặng nề. Với ý chí quyết thắng, với tinh thần “Kỷ luật và Đồng tâm” cùng khẩu hiệu “Tay búa, tay súng”, “ Nhằm thẳng quân thù mà bắn”…, tự vệ mỏ đã nổ súng đánh địch 78 trận, bắn cháy 5 máy bay Mỹ. Cả vùng mỏ bấy giờ thành một “Pháo đài thép” sừng sững hiên ngang bám trụ đánh địch kiên cường. Nhiều công nhân, chiến sĩ tự vệ mỏ không tiếc thân mình vượt qua bom đạn để cứu máy, cứu người. Với tinh thần “Chia lửa với miền Nam”, trong phong trào “Ba sẵn sàng”, đã có gần một vạn đoàn viên, thanh niên làm đơn tình nguyện. Riêng năm 1966 đã có 300 thanh niên mỏ lên đường nhập ngũ.
![]() |
Khẩu đội súng cối của Đội tự vệ mỏ than Đèo Nai vừa sản xuất vừa chiến đấu trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Ảnh tư liệu |
Ngành than cũng tiếp tục xây dựng được lực lượng đánh địch. Năm 1972, lực lượng phòng không của ngành than đã xây dựng được 25 trận địa pháo cao xạ. Lực lượng tự vệ cơ động và chiến đấu tại chỗ riêng các mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả có gần 9.000 người, tổ chức thành 7 tiểu đoàn, xây dựng chốt yểm quân ở các vị trí quan trọng. Từ năm 1972, tự vệ mỏ được Trung ương giao nhiệm vụ chiến đấu thay thế bộ đội chủ lực. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của đế quốc Mỹ, lực lượng tự vệ mỏ đã đánh trả máy bay Mỹ hàng trăm trận, hạ 5 máy bay.
Mặc dù giặc Mỹ đánh phá ác liệt song cán bộ, công nhân, tự vệ mỏ vẫn kiên cường bám trụ sản xuất, đảm bảo đủ than cho xuất khẩu và nhu cầu công nghiệp của miền Bắc. Lúc này, cả vùng mỏ thi đua với khẩu hiệu “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “tất cả đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”…
Với những nỗ lực không ngừng, năm 1965, ngành Than Quảng Ninh được Bác Hồ tặng “Cờ thưởng luân lưu thi đua khá nhất”. Bác căn dặn thợ mỏ cùng toàn thể nhân dân tiếp tục phát huy thắng lợi trong sản xuất, công tác và sẵn sàng chiến đấu.
![]() |
Mỏ Đèo Nai được Bác tặng “Cờ thưởng luân lưu Thi đua khá nhất” vào mùa xuân năm 1965. Ảnh tư liệu của Bảo tàng Quảng Ninh |
Tết Nguyên đán năm 1966, công nhân mỏ thực hiện khẩu hiệu “Trận địa là nhà, vùng mỏ là quê hương, tết sản xuất, chiến đấu và tiết kiệm”. Hàng ngàn công nhân, cán bộ đã đăng ký ở lại ăn tết, sản xuất và chiến đấu. Đầu năm 1966, phong trào thi đua chống Mỹ cứu nước, thực hiện lời Bác dạy “Mỗi người làm việc bằng hai”, thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất… diễn ra khắp vùng mỏ.
Ngày 15/11/1968, tại Phủ Chủ tịch, trong lần gặp mặt đại biểu công nhân, cán bộ ngành Than và tỉnh Quảng Ninh, Bác Hồ căn dặn: “Ngành sản xuất than cũng như quân đội đánh giặc. Toàn thể công nhân và cán bộ phải có nhiệt tình cách mạng và tinh thần yêu nước rất cao, ý chí quyết tâm đánh thắng rất vững, phải đoàn kết nhất trí, phải có đầy đủ ý thức làm chủ nhà nước, làm chủ xí nghiệp, vượt mọi khó khăn, nhằm vào một mục đích chung là sản xuất thật nhiều than cho Tổ quốc”.
![]() |
Bác Hồ nói chuyện với công nhân mỏ tại Phủ Chủ tịch. Ảnh tư liệu |
Thực hiện lời dạy của Bác, ngành than đã mở cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng, phát động phong trào thi đua sản xuất sôi nổi. Khi cuộc chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ nổ ra, ngành than vẫn tiếp tục nỗ lực khôi phục sản xuất và chiến đấu. Tranh thủ thời gian Mỹ ngừng ném bom, than vẫn được đưa ra bến. Ở khu vực Cẩm Phả, trong khi tập trung khôi phục cầu 20 và tuyến đường sắt, Xí nghiệp Liên hiệp than Cẩm Phả đã huy động lực lượng ô tô khẩn trương chở than ra bến Cửa Ông. Cửa Ông một lần nữa lại trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt của địch. Hứng chịu biết bao trận không kích, nhưng Nhà sàng, Cầu 20 và Bến cảng vẫn hiên ngang đứng vững; xuất khẩu than từ Bến Cửa Ông đã trở thành nguồn ngoại tệ lớn nhất của nước ta.
Ông Đoàn Kiển, nguyên Tổng giám đốc Tổng công ty Than Việt Nam xúc động chia sẻ:
“Những chiến sĩ tự vệ Nhà sàng Cửa Ông không chỉ chiến đấu như những người lính thực thụ, mà còn sản xuất như những người thợ thực thụ. Họ đã biến Nhà sàng thành pháo đài kiên cố, nơi bom đạn kẻ thù không thể khuất phục được tinh thần của thợ mỏ”.
![]() |
Ông Đỗ Văn Tăng, Chủ tịch Công đoàn Công ty Tuyển than Cửa Ông - TKV tuyên truyền về lịch sử Đội Tự vệ Nhà sàng Cửa Ông cho các đoàn viên thanh niên. Ảnh: Hoàng Yến |
Với những nỗ lực đó, năm 1972, mặc dù địch đánh phá ác liệt nhưng do chuyển hướng khai thác, khu mỏ vẫn sản xuất được 2 triệu tấn than hầm lò. Tại Vùng mỏ, những người công nhân trên tầng cao, trong lò sâu hay bên xưởng máy đã hăng hái lao động quên mình với tinh thần “Sản xuất than như quân đội đánh giặc”, các mỏ lập nhiều thành tích sản xuất to lớn, nhiều chiến công oanh liệt.
Những đóng góp sức người, sức của to lớn của cán bộ, công nhân ngành than trong kháng chiến chống Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng CNXH ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam, đánh bại những cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ tại miền Bắc; làm nên chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975. Từ những trang sử vẻ vang ấy, ngành than đã tiếp bước đà để đi đến ngày hôm nay phát triển mạnh mẽ, xứng đáng với mong muốn của Bác Hồ “đẩy mạnh ngành than trở thành ngành gương mẫu cho các ngành kinh tế khác và tỉnh Quảng Ninh trở thành một tỉnh giàu đẹp”.
Thực hiện: KHÁNH ĐAN
Trình bày: MẠNH HÀ
Ý kiến ()