
Công nghệ số - nền tảng cho nuôi biển hiện đại
Triển khai Chỉ thị số 13-CT/TU ngày 10/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác quản lý và phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản trên biển, nhiều mô hình nuôi biển ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số đã được triển khai sâu rộng trên toàn tỉnh. Từ đó mở ra hướng phát triển thủy sản theo mô hình công nghiệp, hiện đại, chuẩn xuất khẩu.
Quảng Ninh đã xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý nuôi trồng thủy sản, kết nối với Đề án 06 về định danh tàu thuyền, bảo đảm đồng bộ, minh bạch. Hệ thống này cho phép quản lý thông tin từ vùng nuôi, đối tượng nuôi, cơ sở sản xuất đến sản phẩm cuối cùng, đồng thời giúp cơ quan quản lý giám sát chặt chẽ quá trình cấp phép, giao khu vực biển, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Đến tháng 6/2025, toàn tỉnh đã cấp hơn 1.300 tài khoản hệ thống và 2.630 mã QR-code cho các sản phẩm nông, thủy sản tham gia truy xuất nguồn gốc. Hiện có tới 86% sản phẩm thủy sản đã qua chế biến được gắn mã truy xuất, tạo niềm tin cho người tiêu dùng, mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường trong và ngoài nước.
Không dừng ở quản lý, chuyển đổi số còn gắn liền với những mô hình nuôi công nghệ cao. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã đã áp dụng hệ thống cho ăn tự động, cảm biến theo dõi chất lượng nước, hay camera giám sát lồng nuôi. Những ứng dụng này giúp giảm chi phí nhân công, nâng cao tỷ lệ sống của con giống, đồng thời hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường.

Tại Đặc khu Vân Đồn, Hợp tác xã Thắng Lợi đã triển khai mô hình nuôi cá chim vây vàng bằng thức ăn công nghiệp, ứng dụng công nghệ quản lý đàn cá bằng phần mềm trực tuyến. Hay như mô hình “Nuôi trồng thủy sản bền vững Vịnh Hạ Long gắn với bảo tồn di sản” ở làng chài Vông Viêng đã chứng minh khả năng kết hợp giữa công nghệ nuôi biển, du lịch sinh thái và bảo tồn di sản thiên nhiên thế giới. Đặc biệt, Công ty CP Tập đoàn STP kết hợp nuôi rong sụn với hàu tại vùng biển Vân Đồn, vừa tận dụng hiệu quả không gian biển, vừa cải thiện chất lượng môi trường.
Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc Tập đoàn STP, chia sẻ: Tập đoàn STP đã ký hợp tác với Viện Nghiên cứu Hải sản là nơi đã nghiên cứu các đề tài KHKT cho ngành rong sụn số 1 Việt Nam hiện nay với những chuyên gia có gần 20 năm kinh nghiệm. Bà con được trang bị kỹ thuật và chuyển giao 100% công nghệ cũng như đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
Cùng với sự chủ động của các hợp tác xã, doanh nghiệp, thời gian qua, tỉnh cũng đã tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ thuộc Chương trình Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi, vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2025 và nhiệm vụ KHCN cấp tỉnh. Điển hình như ứng dụng KHCN xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm sò huyết; xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ KHCN nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh 2 giai đoạn ít thay nước theo công nghệ Trúc Anh; nghiên cứu bệnh và địch hại trên một số nhuyễn thể hai mảnh vỏ nuôi chủ yếu và đề xuất giải pháp phòng chống; hoàn thiện công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm sá sùng quy mô hàng hóa; hoàn thiện công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá song da báo… Các nhiệm vụ này đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp, các hộ nuôi trồng thủy sản trong vùng dự án nhờ được hỗ trợ các công nghệ mới, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Đây cũng là những bước khởi đầu quan trọng trong quá trình chuyển đổi mô hình nuôi truyền thống sang mô hình tuần hoàn xanh, công nghệ cao, chuẩn xuất khẩu.
Nhờ đẩy mạnh áp dụng KHCN và chuyển đổi số, so với thời điểm trước khi ban hành Chỉ thị số 13-CT/TU, tổng sản lượng thủy sản từ gần 145.000 tấn năm 2020 tăng lên trên 166.000 tấn năm 2024 (tỷ lệ tăng bình quân 3%/năm). Các vùng nuôi tập trung đã tăng quy mô lên 32.092ha (tăng 151% so với năm 2020) với 11.228 cơ sở trong đó có 33 doanh nghiệp, 244 HTX và các hộ cá nhân tham gia sản xuất thuỷ sản, đưa giá trị sản xuất thủy sản năm 2024 đạt 7.000 tỷ đồng toàn tỉnh và dự kiến đến năm 2030 sẽ đạt trên 16.600 tỷ đồng (cao gấp 3 lần so với năm 2020).
Không chỉ dừng ở sản xuất, ngành còn thúc đẩy số hóa chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ. Hiện tỉnh có 184 cơ sở sơ chế, chế biến thủy sản, trong đó 24 cơ sở xuất khẩu đã áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai vẫn gặp không ít thách thức, như chồng lấn quy hoạch với luồng hàng hải, cảng biển; sự thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các đơn vị quản lý hay việc nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã chưa chú trọng đầu tư bài bản vào lập dự án, ứng dụng công nghệ. Tuy nhiên, tỉnh đang tích cực tháo gỡ bằng cách hoàn thiện quy trình pháp lý, chuẩn hóa quy chuẩn kỹ thuật địa phương, đồng thời đẩy mạnh hỗ trợ các cơ sở sản xuất trong việc số hóa quản lý và ứng dụng công nghệ nuôi hiện đại. Trong thời gian tới, tỉnh tiếp tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu, xây dựng quy chuẩn kỹ thuật địa phương về nuôi biển, khuyến khích đầu tư vào công nghệ cao, đồng thời phát triển những mô hình kết hợp nuôi trồng với du lịch, bảo tồn sinh thái. Đây chính là con đường tất yếu để Quảng Ninh thực hiện thành công mục tiêu xây dựng ngành thủy sản thông minh, bền vững, góp phần hiện thực hóa khát vọng trở thành trung tâm kinh tế biển hiện đại của cả nước, gắn kết hài hòa giữa khai thác tiềm năng, bảo vệ môi trường và hội nhập quốc tế.
Ý kiến ()