Ủng hộ đề xuất tăng thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ sinh con thứ hai, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng cần chính sách hỗ trợ tổng thể để khuyến sinh.
Tại dự thảo Tờ trình đề nghị xây dựng Luật Dân số, Bộ Y tế đề xuất lao động nữ sinh con thứ hai được nghỉ thai sản 7 tháng, các trường hợp khác giữ nguyên hiện hành 6 tháng. Lao động nữ sinh đủ hai con ở khu công nghiệp, chế xuất và tỉnh thành có mức sinh thấp được hỗ trợ thuê, mua nhà ở xã hội. Đề xuất trong bối cảnh mức sinh của Việt Nam đang giảm nhanh, từ 1,96 con mỗi phụ nữ năm 2023 xuống còn 1,91 con vào năm 2024.
Bộ luật Lao động hiện hành quy định lao động nữ sinh con nghỉ thai sản trước và sau sinh là 6 tháng, nghỉ trước sinh không quá 2 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm một tháng.
Trẻ em TP Huế được gia đình đưa đi xem múa lân sư rồng. Ảnh: Võ Thạnh
Ủng hộ đề xuất trên, nguyên Thứ trưởng Lao động Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân cho biết chế độ thai sản 6 tháng được quy định lần đầu trong Bộ luật Lao động 2012 và giữ nguyên trong Bộ luật sửa đổi năm 2019.
Ông kể năm 2011 khi xây dựng Bộ luật Lao động, cơ quan soạn thảo đã đặt trọng tâm nâng thời gian nghỉ thai sản từ 4 lên 6 tháng nhằm bảo vệ sức khỏe người mẹ sau sinh nở, giúp trẻ được dùng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Phần lớn bộ ngành đồng tình, một số còn đề xuất nhiều hơn 6 tháng. Riêng đại diện doanh nghiệp muốn giữ 4 tháng vì lo ngại ảnh hưởng sản xuất. Cuối cùng phương án 6 tháng được Quốc hội thông qua, Bộ luật có hiệu lực từ 1/5/2013.
Sau hơn 10 năm thực thi chính sách, ông Huân nhận thấy áp lực cuộc sống ngày càng lớn nên cần tính tới nâng thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ. Thực tế để cân bằng công việc lẫn nuôi con nhỏ, nhiều người đã phải xin nghỉ không lương, co kéo thời gian cho tới khi em bé cứng cáp. Bộ Y tế đề xuất thêm một tháng theo ông "hẳn có những tính toán hợp lý".
Song ông Huân cũng chỉ ra những thách thức khi nâng thời gian nghỉ thai sản, trong đó có tăng chi từ Quỹ Ốm đau thai sản do thêm một tháng trợ cấp, tạo rào cản khiến doanh nghiệp ngại tuyển lao động nữ trong tuổi sinh con. "Nghỉ thêm một tháng với lao động khu vực hành chính, sự nghiệp, nhà nước không đáng lo, nhưng khối sản xuất sẽ khó, nhất là doanh nghiệp FDI, ngành nghề thâm dụng lao động", ông nói.
Chung quan điểm, GS.TS Giang Thanh Long, giảng viên cao cấp Trường Kinh tế và Quản lý công, Đại học Kinh tế quốc dân, ủng hộ đề xuất nâng thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ. Quy định này giúp người mẹ có thêm thời gian chăm trẻ sơ sinh cũng như nghỉ ngơi phục hồi sức khỏe. Song cũng có thực tế nhiều lao động nữ nghỉ thai sản ít hơn quy định, phải quay lại làm việc vì lý do kinh tế.
Ông Long nhấn mạnh điều tiên quyết để các cặp vợ chồng quyết định sinh thêm con hay không là kinh tế. Nếu thu nhập ổn định, họ sẽ cân nhắc sinh thêm con và ngược lại. Bất ổn thị trường lao động, đặc biệt khủng hoảng kinh tế, đại dịch... khiến công việc dần bấp bênh, thu nhập không ổn định cùng với áp lực chi phí nhà ở, giáo dục, y tế, chăm sóc con cái khiến nhiều cặp vợ chồng không sinh thêm con hoặc sinh chậm hơn dự kiến.
Nhiều gia đình, nhất là ở các thành phố lớn, muốn tập trung thời gian, tiền bạc vào 1-2 con thay vì sinh nhiều. Chưa kể "thế hệ bánh kẹp" vừa phải nuôi dạy con cái, vừa chăm sóc cha mẹ già lương hưu ít ỏi hoặc không hưu trí, sức khỏe kém, khiến nhiều người thực sự mệt mỏi khi nghĩ tới có thêm con.
Nhà ở cũng là vấn đề bức bối với lao động vì có thể mất vài chục năm tích lũy mới mua nổi nhà thành phố. Ở Đài Loan có nhóm dân số trẻ được gọi là "nô lệ nhà ở" vì sẽ phải lao động cật lực hàng chục năm và chi tiêu dè sẻn mới có thể sở hữu một căn nhà theo nhu cầu. Ngoài ra, quy định liên quan tới diện tích ở tối thiểu cho hộ gia đình nếu sinh thêm con sẽ phát sinh khoản phải mua nhà rộng hơn mà giá chênh lệch quá lớn khiến nhiều gia đình không thể chi trả.
Bình đẳng giới trên thị trường lao động đã cải thiện nên quyền năng và vai trò trong kinh tế của phụ nữ trong gia đình cũng lớn hơn. Điều này dẫn tới quyết định sinh sản phụ thuộc vào phụ nữ chứ không phải hoàn toàn do nam giới hay gia đình như trước. Phụ nữ phải cân đối sự nghiệp, công việc, học hành với việc gia đình, trong đó có nuôi, dạy con cái nên họ gặp nhiều áp lực. Chưa kể vẫn tồn tại sự khác biệt giới với số giờ làm việc nhà hàng tháng và chăm sóc không được trả công của phụ nữ cao hơn rất nhiều so với nam giới. Những điều này khiến phụ nữ thấy mất nhiều cơ hội trong công việc.
"Nâng thời gian thai sản là hợp lý nhưng chưa đủ, cần chính sách tổng thể trong tất cả lĩnh vực để thay đổi mức sinh, bởi yếu tố tác động là điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa truyền thống", GS Long nói.
Ông gợi ý Việt Nam có thể xem xét kinh nghiệm khuyến sinh của nhiều nước để xây dựng và áp dụng phù hợp với kinh tế xã hội, sức khỏe và văn hóa truyền thống. Ví dụ Nhật Bản mở rộng chế độ thai sản cho các bà mẹ lên 50-67% mức lương thông thường so với 25% vào năm 2000. Việc tăng chế độ nghỉ phép cho nam giới giúp nâng tỷ lệ lao động nam nghỉ từ 1,4% vào năm 2010 lên 12,7% năm 2020. Trong 10 năm này, tỷ suất sinh của Nhật cải thiện từ 1,17 lên 1,26.
Một số quốc gia như Cộng hòa Czech, Hungari... đã giảm thuế thu nhập cá nhân, giảm hoặc miễn học phí cho học sinh trường công lập. Việt Nam đã thông qua chính sách miễn giảm học phí công lập cho các cấp từ mầm non đến hết phổ thông và cần sớm tính đến giảm thuế thu nhập cá nhân, nâng mức giảm trừ gia cảnh để hỗ trợ người lao động tích lũy thêm thu nhập hàng tháng.
Ngoài tăng thời gian, cần nâng mức trợ cấp nghỉ thai sản cho lao động nữ và mở rộng quyền lợi cho nam giới. Hỗ trợ để gia đình lao động di cư mua hoặc thuê nhà với giá hợp lý cũng là chính sách cấp thiết. Ông Long dẫn lại lời Thủ tướng Phạm Minh Chính trong hội nghị trực tuyến về phát triển nhà ở xã hội ngày 6/3/2025 rằng "không hạn chế sinh con để chống già hóa dân số, nhưng nhà ở chỉ có 10 m2, 12 m2... thì làm sao sinh ba được". Nhà ở vì thế không chỉ là an cư mà còn là động lực phát triển dân số.
Dự án Luật Dân số dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 10 tháng 5-6 và thông qua tại kỳ họp 11 vào tháng 10-11/2025.
Tới tháng 4/2024, dân số Việt Nam đạt hơn 101,1 triệu, đông thứ ba Đông Nam Á, sau Indonesia và Philippines. Nam giới chiếm 49,8% dân số, trên 50,3 triệu; nữ giới đạt 50,8 triệu. Từ năm 2019 đến 2024, dân số Việt Nam tăng mỗi năm gần một triệu người, song tốc độ tăng bình quân chỉ đạt 0,99%, giảm so với mức 1,22% của 5 năm trước đó do mức sinh giảm.
Tiền hưởng thai sản theo quy định hiện hành mỗi tháng bằng 100% bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ hưởng chế độ. Hết năm 2023, bình quân tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội của lao động khu vực nhà nước đạt 6,9 triệu, lao động khối doanh nghiệp, hợp tác xã gần 6,4 triệu đồng.
Ý kiến ()