Đông Triều: Bảo vệ môi trường trong sản xuất, khai thác than
Với quan điểm xác định công tác bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, liên tục và lâu dài, TP Đông Triều cùng các doanh nghiệp đã nỗ lực bảo vệ môi trường trong sản xuất, khai thác than.
Hiện nay, trên địa bàn TP Đông Triều có 7 đơn vị được cấp phép hoạt động khai thác, kinh doanh, tiêu thụ than, sản xuất điện, thuộc địa bàn 7 xã, phường: Mạo Khê, Yên Thọ, Hoàng Quế, Hồng Thái Tây, Hồng Thái Đông, Bình Khê, Tràng Lương. Trong đó TKV có 4 đơn vị thành viên, ranh giới bảo vệ, quản lý, khai thác tài nguyên mỏ 42,829km2; Tổng Công ty Đông Bắc có 3 đơn vị thành viên.
Các dự án khai thác hầm lò, lộ thiên của các đơn vị thuộc TKV và Tổng công ty Đông Bắc đang hoạt động trên địa bàn TP Đông Triều cơ bản đã hoàn thiện đầy đủ các thủ tục pháp lý về môi trường, như: Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), giấy phép môi trường, đề án cải tạo, phục hồi môi trường, giấy phép khai thác nước, xả nước thải vào nguồn nước, phương án cải tạo, phục hồi môi trường... được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Ngoài ra, ngành than đã đầu tư 8 hệ thống quan trắc môi trường nước thải tự động, liên tục và truyền dữ liệu trực tiếp về Sở TN&MT (Tổng Công ty Đông Bắc 3 Trạm, TKV 5 trạm).
Phần lớn nước thải từ hầm lò, khai trường khai thác than đã được thu gom, xử lý cơ bản triệt để; các đơn vị ngành than đã triển khai đầu tư xây dựng đối với 7 trạm xử lý nước thải công nghiệp tập trung...
Đối với chất thải rắn là đất đá thải mỏ, chủ yếu phát sinh do hoạt động khai thác than, một số khối lượng đất đá thải mỏ được dùng, làm vật liệu san lấp mặt bằng một số dự án đầu tư trên địa bàn, số còn lại tạo thành các bãi thải được các đơn vị khai thác mỏ tiến hành hoàn nguyên, thực hiện trồng cây phủ xanh các bãi đổ thải. Hằng năm, các đơn vị ngành than đã đầu tư các dự án, đề án cải tạo, phục hồi môi trường tại các khu vực sau khai thác, bãi thải, hệ thống mương với các hạng mục như: trồng cây phục hồi môi trường, nạo vét lòng suối, xây kè và gia cố đập chắn, thực hiện ký quỹ bảo vệ môi trường theo nội dung dự án cải tạo, phục hồi môi trường được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại, hàng năm, các công ty đều ký hợp đồng với các đơn vị có chức năng để thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại; thực hiện lập sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại để quản lý theo quy định. Công tác bảo vệ môi trường tại các bãi thải được các đơn vị quan tâm xây dựng hệ thống thu gom nước xung quanh; trồng cây môi trường; xây kè chắn rọ đá chân bãi thải... nhằm đảm bảo an toàn và bảo vệ môi trường.
Đáng chú ý, việc vận chuyển than của các đơn vị được phép khai thác trên địa bàn đều thực hiện theo đường chuyên dùng, đường nội mỏ, băng tải than ra tiêu thụ tại cảng Bến Cân của TKV và cảng Hồng Thái Tây của Tổng Công ty Đông Bắc; không vận chuyển trên QL18A nên vấn đề vệ sinh môi trường và ATGT cơ bản đảm bảo.
Để xử lý khí thải, bụi, UBND thành phố luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh nghiên cứu, ứng dụng các loại hình sản xuất có hàm lượng công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Đến nay, phần lớn các công ty trên địa bàn thành phố đã đầu tư hệ thống sản xuất công nghệ mới, có hệ thống xử lý khí thải công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu phát thải ra môi trường.
Ông Nguyễn Văn Đạt, Phó Trưởng phòng TN&MT TP Đông Triều cho biết: Định kỳ hằng năm UBND thành phố tổ chức hội nghị đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ phối hợp và đề xuất nhiệm vụ, nội dung tiếp tục phối hợp với các đơn vị ngành than trong thời gian tiếp theo. Trong thời gian tới, UBND thành phố tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, UBND các xã, phường tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trên địa bàn, triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật có liên quan và Nghị quyết số 10-NQ/TU (ngày 26/9/2022) của BCH Đảng bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh nguồn nước giai đoạn 2022-2030”.
Ý kiến ()