
Hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng mới
Ngày 26/2/2025, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 259/NQ-HĐND về bổ sung nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 14% trở lên. Đây là mức tăng trưởng ấn tượng trong điều kiện tỉnh vừa chịu tổn thất nặng nề do cơn bão số 3, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường... Để đạt mục tiêu này, đòi hỏi Quảng Ninh tiếp tục có sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn, sự đồng tốc, đồng hành của cả hệ thống chính trị.
Quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng 14% trở lên
Ngày 24/1/2025 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 123-KL/TW về Đề án bổ sung về phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên. Tiếp đó, ngày 5/2/2025 của Chính phủ cũng ban hành Nghị quyết số 25/NQ-CP về mục tiêu tăng trưởng các ngành, lĩnh vực và địa phương bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và để phát huy vai trò là một cực tăng trưởng phía Bắc, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thảo luận và đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 phải đạt trên 14%, tăng 2% so với chỉ tiêu Trung ương giao. HĐND tỉnh cũng thống nhất và ban hành Nghị quyết số 259/NQ-HĐND ngày 26/2/2025 về bổ sung nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 14% trở lên.
Trước đó, từ cuối năm 2024, Tỉnh ủy và HĐND tỉnh đã ban hành nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm 2025 với chủ đề công tác năm “Bứt phá trong phát triển kinh tế, tạo đà cho nhiệm kỳ mới”. Theo đó đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 đạt 12% bằng với mục tiêu Chính phủ giao cho Quảng Ninh tại Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 5/2/2025 (đứng thứ 4 cả nước và thứ 2 Vùng đồng bằng sông Hồng).
Với việc điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng lên 14% trong năm 2025, Quảng Ninh quyết tâm cùng cả nước phấn đấu hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế điều chỉnh, bứt phá về đích kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, tạo tiền đề vững chắc để Quảng Ninh cùng đất nước tự tin bước vào kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng đạt 14% trở lên cũng là mục tiêu tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay của tỉnh, là một thách thức lớn trong khi tỉnh vừa trải qua cơn bão số 3 với nhiều hậu quả nặng nề và tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động. Chính vì thế, để đạt được mục tiêu này, Quảng Ninh đã tập trung triển khai ngay đồng bộ các nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, quan trọng để khơi thông và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tận dụng mọi cơ hội để thu hút đầu tư phát triển và khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế, thế mạnh của tỉnh để thúc đẩy tăng trưởng. Trong đó, tập trung giải quyết ngay các vướng mắc thuộc thẩm quyền của địa phương như quy hoạch, vật liệu san lấp, giải phóng mặt bằng... liên quan đến các dự án đầu tư (bao gồm cả đầu tư công và đầu tư ngoài ngân sách).
Tỉnh cũng khẩn trương xây dựng các chương trình, kế hoạch để tổ chức thực hiện. Ngày 5/3/2025, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 69/KH-UBND về việc thực hiện chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2025 tỉnh Quảng Ninh. Trong đó, phân công rõ nhiệm vụ, xác định rõ lộ trình, tiến độ; giao chỉ tiêu tăng trưởng cho từng ngành, lĩnh vực.
Quảng Ninh xác định thúc đẩy giải ngân đầu tư là một trong những động lực quan trọng hàng đầu, là trụ cột để tăng trưởng kinh tế năm 2025. Do vậy, tỉnh và các cấp, các ngành đều chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công gắn với khối lượng thực hiện, chất lượng công trình, tốc độ hoàn thành dự án và phát huy hiệu quả dự án sau đầu tư. Đặc biệt tập trung đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công ngay từ những tháng đầu năm, lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư xã hội, thúc đẩy hợp tác công tư; thực hiện kiểm đếm kết quả thực hiện hằng tháng, hằng quý; phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn bố trí trong thời gian sớm nhất.
Ngay từ đầu năm, Quảng Ninh đã tập trung rà soát các dự án gặp khó khăn, vướng mắc, tồn đọng kéo dài trên địa bàn tỉnh theo Công điện số 13/CĐ-TTg ngày 8/2/2025 của Thủ tướng Chính phủ và rà soát, xử lý dứt điểm các tồn tại, vướng mắc của các dự án hạ tầng khu dân cư đô thị, nhà ở trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, đôn đốc đẩy mạnh phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2025. Theo đó, tổng kế hoạch chi đầu tư công năm 2025 của tỉnh là 12.955,9 tỷ đồng, cao hơn 1.049,8 tỷ đồng so với Kế hoạch HĐND tỉnh giao đầu năm (11.906,1 tỷ đồng). Số vốn đã phân khai chi tiết là 12.844 tỷ đồng, số vốn còn lại chưa phân khai là 111,2 tỷ đồng.
Cùng với đó, hàng loạt giải pháp đã được Quảng Ninh đặt ra nhằm thúc đẩy tăng trưởng ngay từ những tháng đầu năm. Đối với khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, tỉnh chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư: Dự án khu chăn nuôi lợn giống ứng dụng Công nghệ cao tại xã Tràng Lương, TP Đông Triều của Công ty Cổ phần Dabaco Quảng Ninh. Tiếp tục rà soát các diện tích NTTS, loài thủy sản để mở rộng, nâng cao sản lượng các loài nuôi có giá trị kinh tế cao (như: tôm, nhuyễn thể...); phấn đấu chỉ tiêu sản lượng NTTS vượt mục tiêu đề ra và nâng cao giá trị, đóng góp tích cực để thực hiện mục tiêu tăng trưởng GRDP toàn ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản và tăng trưởng GRDP toàn tỉnh đạt mức cao nhất. Đặc biệt là phấn đấu đến hết tháng 3/2025, hoàn thành giao khu vực biển được quy hoạch cho các đối tượng có nhu cầu trên địa bàn các địa phương.

Cùng với đó, tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thực hiện thu ngân sách trên địa bàn, trong đó rà soát toàn bộ nguồn thu phát sinh, số thuế còn được gia hạn, nắm chắc đối tượng nộp ngân sách trên địa bàn, lĩnh vực để có giải pháp quản lý thu phù hợp, hiệu quả, khai thác các nguồn thu còn dư địa.
Tập trung đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm, khơi thông điểm nghẽn, đưa dòng vốn đầu tư công vào nền kinh tế, thu hút đầu tư, dẫn dắt tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phục hồi nhanh và phát triển bền vững. Tiếp tục rà soát, đánh giá khả năng giải ngân, tổng hợp nhu cầu bổ sung vốn và có phương án điều chỉnh kế hoạch vốn từ những dự án chậm giải ngân sang dự án có khả năng giải ngân; xây dựng kế hoạch giải ngân, GPMB chi tiết từng dự án để tổng hợp theo dõi. Các chủ đầu tư tập trung chỉ đạo các đơn vị thi công tranh thủ thời tiết thuận lợi để tập trung nhân lực, máy móc, thiết bị thi công triển khai các công việc trên hiện trường, tăng cường thi công, phấn đấu thi đua vượt tiến độ, đảm bảo chất lượng công trình, đặc biệt đối với các công trình chào mừng đại hội Đảng bộ tỉnh XVI.
Tỉnh cũng quyết định giao; giao chỉ tiêu giá trị sản xuất cho từng địa phương gắn với cơ chế giám sát, đôn đốc, kiểm đếm kết quả thực hiện nhằm phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo, tiềm năng, thế mạnh của các ngành, các cấp, các địa phương trong quyết tâm, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đề ra.
Kỳ vọng vào các nhân tố tăng trưởng truyền thống
Trong 2 tháng đầu năm, Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của Quảng Ninh tăng 10,38%; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng chính trong khu vực công nghiệp với tốc độ tăng trưởng 2 tháng, ước tăng 21,85%. Khu vực dịch vụ, du lịch có nhiều chuyển biến tích cực, các hoạt động du lịch trong Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 và mùa Lễ hội năm 2025 được đảm bảo an toàn, vui tươi, hiệu quả. Tổng lượng khách du lịch đến Quảng Ninh 2 tháng ước đạt 3,73 triệu lượt, tăng 27%, trong đó khách quốc tế đạt 740.000 lượt; tổng doanh thu du lịch đạt 8.306 tỷ đồng, tăng 8%. Kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đạt 597 triệu USD, tăng 16,8%. Tổng thu ngân sách nhà nước thực hiện 2 tháng đạt 9.500 tỷ đồng, bằng 17% dự toán trung ương giao. Trong đó, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 2.722 tỷ đồng, thu nội địa đạt 6.778 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ.
UBND tỉnh đã chỉ đạo rà soát, xử lý các tồn tại, vướng mắc đã lâu của một số dự án hạ tầng khu dân cư đô thị, nhà ở trên địa bàn tỉnh; làm việc với các tập đoàn, doanh nghiệp, nhà đầu tư lớn về triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh có thể đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh... Tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp tổ chức bộ máy, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, với 7 sở thành lập, 6 sở tổ chức lại; xây dựng và ban hành các Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.

Những tháng tiếp theo, Quảng Ninh có kế hoạch bảo đảm tính ổn định của các ngành truyền thống, thúc đẩy đầu tư tư nhân và công nghiệp chế biến, chế tạo, đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới. Trong đó, bám sát kế hoạch sản xuất, kinh doanh của ngành than, ngành điện đảm bảo đạt chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Đồng hành, rà soát, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn liên quan đến điều chỉnh quy hoạch, phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500, giải quyết chồng lấn, ranh giới quy hoạch; chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư, công tác đền bù giải phóng mặt bằng, giao đất, cho thuê đất,... đối với các công trình, dự án do Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam và Tổng Công ty Đông Bắc thực hiện. Hoàn thành điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư Nhà máy điện khí LNG trong quý I/2025 sau khi chủ đầu tư phê duyệt dự án và đảm bảo tiến độ giải phóng mặt bằng, bàn giao quỹ đất cho chủ đầu tư thực hiện xây dựng Nhà máy điện khí LNG Quảng Ninh dự kiến trong tháng 5/2025.
Tỉnh cũng sẽ tháo gỡ khó khăn liên quan đến chồng lấn quy hoạch, công tác giải phóng mặt bằng, phê duyệt hướng tuyến để triển khai các dự án: Đường dây 220kV Yên Hưng - Nam Hòa (TX Quảng Yên), Đường dây và trạm biến áp 110kV Cao Thắng, Đường dây và trạm biến áp 110kV Hoành Bồ, Đường dây và TBA 110kV Hùng Thắng, Đường dây 110kV Hoành Bồ - Nhánh rẽ Hùng Thắng (TP Hạ Long), Trạm biến áp 220kV Cộng Hòa và đấu nối, xuất tuyến 110kV sau Trạm biến áp 220kV Cộng Hòa, TP Cẩm Phả (TP Cẩm Phả), Đường dây 110kV Cộng Hòa - Vân Đồn 2, TP Cẩm Phả, đường dây và TBA 110kV Ba Chẽ (huyện Ba Chẽ)... Đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, đưa vào sử dụng trong quý II/2025 đối với 3 Dự án phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ tại các khu công nghiệp trên địa bàn các địa phương Uông Bí, Quảng Yên, Hải Hà với tổng công suất 49,2MW; tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển tối đa loại hình nguồn điện này trong các KCN. Báo cáo, đề xuất với cấp có thẩm quyền bổ sung 3 dự án điện gió ngoài khơi, tổng công suất 9.000MW; 3 dự án điện gió trên bờ, tổng công suất 300MW và 1 dự án điện khí LNG Quảng Ninh 2 công suất 1.500MW vào Quy hoạch điện VIII điều chỉnh. Xúc tiến, thu hút, phát triển các dự án điện gió trên bờ, điện sinh khối, điện rác tại các địa phương Hạ Long, Vân Đồn, Bình Liêu, Cô Tô, Móng Cái, Ba Chẽ, Uông Bí, Cẩm Phả, Tiên Yên theo quy hoạch được duyệt.
Tỉnh cũng thúc đẩy đầu tư tư nhân, thực hiện rà soát toàn bộ các dự án đang triển khai, lập danh sách các vướng mắc, khó khăn để tập trung tháo gỡ, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, địa phương, đẩy nhanh tiến độ, trọng tâm là các dự án trọng điểm như: Hạ Long Xanh, Công viên Đại Dương, Điện khí LNG, Cảng Vạn Ninh,... Tập trung đẩy nhanh tiến độ, thu hút, hỗ trợ nhà đầu tư triển khai một số dự án động lực mới như: Khu vui chơi giải trí công cộng và vườn thực vật Hạ Long, Cảng Hòn Nét - Con Ong (cùng với hệ thống đường kết nối đến cao tốc).
Đối với phát triển công nghiệp, hiện Quảng Ninh đảng đẩy nhanh tiến độ đầu tư hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp Đồng Mai (TX Quảng Yên), Cụm công nghiệp Vân Đồn (huyện Vân Đồn), phấn đấu trong năm 2025 đưa cụm công nghiệp vào hoạt động, thu hút các dự án thứ cấp. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành thủ tục chuẩn bị đầu tư Cụm công nghiệp Yên Than (huyện Tiên Yên), Cụm công nghiệp Tràng An (TP Đồng Triều), phấn đấu khởi công năm 2025, đóng góp vào tăng trưởng. Trong quý 1/2023, thành lập 2 cụm công nghiệp (Cụm công nghiệp Hải Yên, TP Móng Cái và Cụm công nghiệp hỗ trợ phường Hà Khẩu, TP Hạ Long). Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thành lập Cụm công nghiệp Quảng Thành (huyện Hải Hà), Cụm công nghiệp Đồng Tâm (huyện Bình Liêu) để phục vụ tăng trưởng kinh tế giai đoạn sau năm 2025. Hết năm 2025, trên địa bàn tỉnh thành lập mới ít nhất 5 cụm công nghiệp.
Cùng với đó, tháo gỡ các điểm nghẽn đối với thị trường bất động sản, tập trung xử lý, giải quyết tồn tại của các dự án hạ tầng khu dân cư, dự án khu đô thị, dự án nhà ở, nhà ở xã hội trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tuần hoàn, tiết kiệm tài nguyên, phát triển bền vững.
Về du lịch, Quảng Ninh phấn đấu đón trên 20 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế đạt 4,5 triệu lượt, doanh thu từ lĩnh vực du lịch đạt 55.000 tỷ đồng (tương đương với mức chi tiêu bình quân là 2,75 triệu đồng/lượt khách). Tập trung các giải pháp nhằm tăng mức chi tiêu bình quân của khách du lịch, trọng tâm là nguồn khách quốc tế, có mức chi tiêu cao, qua đó tăng tổng doanh thu dịch vụ du lịch; chuyển đổi hình thức phát triển từ du lịch đại chúng sang du lịch bền vững. Cùng với đó, phát triển các sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn; đẩy nhanh xúc tiến thu hút và thu hút đầu tư các sân golf trên địa bàn tỉnh theo quy hoạch được duyệt, tập trung rà soát, phát triển ngành công nghiệp văn hóa, trước mắt là tập trung thu hút, tổ chức các sự kiện, lễ hội, chương trình văn hóa, nghệ thuật lớn,... Nghiên cứu, phát triển các tuyến du lịch mới trên vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vịnh Cửa Lục, Vân Đồn, Cô Tô, hình thành sản phẩm du lịch biển đảo chất lượng cao, độc đáo, thu hút nguồn khách mới, tăng nguồn thu ngân sách.
Bên cạnh các động lực tăng trưởng truyền thống, Quảng Ninh thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới như: Nghiên cứu, hoàn thiện không gian phát triển tổng thể khu vực vịnh Cửa Lục, tập trung triển khai đô thị hóa khu vực Hoành Bồ để đón bắt cơ hội phát triển mới, khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của TP Hạ Long, sớm trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch quốc tế.
Cùng với đó, tỉnh cũng triển khai toàn diện, có hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, để sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực về kinh tế, văn hóa, lịch sử, truyền thống, cảnh quan, vị trí, thương hiệu,... triển khai Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thu hút đầu tư khoa học công nghệ, công nghiệp bán dẫn, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, khởi nghiệp sáng tạo; thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ý kiến ()